Nguyễn Thành Trí
Trường Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh, Phân hiệu Quảng Ngãi
Abstract
Economic innovation and political innovation are familiar topics that have been studied by many domestic and foreign scholars from different perspectives. The relationship between economic innovation and political innovation needs special attention, understanding and good resolution in the process of innovation and building socialism in our country. The important core content in the viewpoints, guidelines and policies of the Communist Party of Vietnam is to properly resolve the relationship between economic innovation and political innovation in the current conditions of building a socialist rule of law state in Vietnam.
Keywords: Awareness, economic innovation, political innovation.
1. Đặt vấn đề
Kinh tế và chính trị luôn tồn tại mối quan hệ cơ bản trong đời sống xã hội, thể hiện ở quan hệ giữa quyền lực chính trị đối với kinh tế, nhằm bảo vệ chế độ chính trị và lợi ích giai cấp cầm quyền, hướng đến sự phát triển kinh tế - xã hội. V.Lênin đã khái quát bản chất mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị như sau: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” và “Chính trị không thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế” (V.Lênin, 1977).
Trải qua hơn 35 năm, lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ngày được sáng rõ. Đảng ta đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tại Đại hội XII, nhìn lại 30 năm đổi mới đất nước, Đảng ta đã chỉ ra hạn chế: Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế. Do đó, bảo đảm tính đồng bộ, phù hợp giữa đổi mới chính trị với đổi mới kinh tế đang là vấn đề thực tiễn cấp bách đặt ra. Để giải quyết vấn đề này, trước hết cần làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Vì vậy, bài viết nghiên cứu phân tích sự phát triển nhận thức của Đảng về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; thực trạng và định hướng mối quan hệ này hiện nay.
2. Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị từ nhận thức của Đảng
2.1. Nhận thức của Đảng về đổi mới kinh tế
Quá trình đổi mới tư duy về lãnh đạo kinh tế từ nhận thức của Đảng về đổi mới kinh tế chính trị. Để hình thành đường lối đổi mới toàn diện, Đảng ta đã trải qua ba bước đột phá trong tư duy: Một là, tại Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (tháng 8/1979), với quan điểm “làm cho sản xuất bung ra”, Đảng ta điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ những cản trở để cho lực lượng sản xuất phát triển. Hai là, Nghị quyết Trung ương 8 khóa V (6/1985) quyết định xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện chế độ một giá, xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, chuyển ngân hàng sang nguyên tắc kinh doanh. Ba là, những kết luận quan trọng của Hội nghị Bộ Chính trị khóa V (8/1986), có tính chất bước ngoặt trong nhận thức về đổi mới kinh tế: (1) bố trí lại cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc; (2) thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta; (3) trong cơ chế quản lý kinh tế thừa nhận lấy kế hoạch làm trung tâm nhưng phải sử dụng đúng quan hệ tiền tệ, hàng hóa. Đây là sự phát triển vượt bậc về tư duy lý luận đổi mới kinh tế gắn với đổi mới chính trị của Đảng.
Từ cơ sở tổng kết thực tiễn lãnh đạo đất nước qua hơn 35 năm đổi mới, lý luận về con đường đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trong đó có đổi mới kinh tế, ngày càng sáng tỏ hơn. Đại hội Đảng VI (năm 1986), đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước; bước chuyển quan trọng trong nhận thức về xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được khẳng định và có ảnh hưởng quyết định đến việc hình thành hệ thống thể chế kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa sau này; đến năm 1989, Đảng ta có bước chuyển căn bản về nhận thức, lý luận khi thừa nhận cơ chế quản lý mới là “cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa”. Từ Đại hội Đảng VII đến Đại hội Đảng IX (năm 2001), chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, khẳng định xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát, là đường lối chiến lược nhất quán của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước bối cảnh đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu, rộng, Đảng chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) gắn với phát triển kinh tế tri thức; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Ở Đại hội XI Đảng (2011), Đại hội Đảng XII (2016), chủ trương tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức; hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Như vậy, cùng với quá trình đổi mới, hệ thống quan điểm, lý luận về đổi mới kinh tế, về kinh tế thị trường định hướng chủ nghãi xã hội đã được hình thành và ngày càng sáng tỏ hơn. Đây cũng chính là nền tảng lý luận cơ bản để Việt Nam tạo dựng cho mình hệ thống thể chế kinh tế mới, vừa đáp ứng được các yêu cầu của nền kinh tế thị trường, vừa bảo đảm được mục tiêu xây dựng xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã đề ra phương hướng giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường được sử dụng như một công cụ, phương tiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế phù hợp với đặc điểm của đất nước. Đây là vấn đề mang tính chiến lược để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.2. Nhận thức của Đảng về đổi mới chính trị
Đổi mới chính trị từ quan điểm “ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong quá trình vận động tiến lên, ổn định để phát triển và có phát triển mới ổn định” (Nam, 1987). Đảng ta chủ trương: (1) thực hiện “một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy nhà nước” theo hướng tăng cường quyền làm chủ của nhân dân, giảm bớt phiền hà cho nhân dân và phân định rõ chức năng quản lý kinh tế của các ngành và địa phương; (2) tăng cường quản lý bằng pháp luật đi đôi với tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc xây dựng pháp luật và tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân; (3) đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã nhận thức rõ hơn tính hệ thống, tính chỉnh thể và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống, tách biệt tương đối giữa hệ thống tổ chức bộ máy với các yếu tố khác của nền chính trị, xác định rõ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 5 đoàn thể nhân dân là thành viên của hệ thống chính trị.
Đảng ta xác định: “Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991).
Trải qua hơn 35 năm đổi mới, Đảng ta thường xuyên chú trọng tìm tòi, nghiên cứu nhằm đổi mới chính trị cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Theo quan điểm của Đảng, trọng tâm của đổi mới chính trị là đổi mới hệ thống chính trị, tập trung vào đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, dân chủ hóa các mối quan hệ trong hệ thống chính trị, làm cho hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, trở thành động lực chủ yếu nhằm khơi dậy và phát huy tối đa mọi nguồn lực và sự sáng tạo của xã hội phục vụ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Đại hội XII, đối với đổi mới chính trị: tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016).
Như vậy, đến những năm đầu thế kỷ XXI, khi đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, Đảng ta chủ trương đổi mới toàn diện, đồng bộ đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ cả kinh tế, chính trị và văn hóa, bảo đảm sự phát triển hài hòa, bền vững, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị.
2.3. Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
Quan điểm của Đảng ta về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ngày càng rõ nét hơn qua các kỳ Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới: Đại hội Đảng VI, trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đã đánh giá đúng những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế, từ đó khẳng định yêu cầu trước hết phải đổi mới tư duy chính trị trong xác định đường lối đối nội và đối ngoại. Với việc đổi mới tư duy chính trị trong hoạch định đường lối, chính sách của Đại hội VI, Đảng ta đã thể hiện rõ quan điểm đổi mới chính trị. Đại hội Đảng VII rút ra bài học kinh nghiệm là: đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991).
Đại hội Đảng VIII khẳng định: kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội Đảng IX, phát triển tư duy về chính trị khi xác định rõ nội hàm về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đảng xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp. Tương ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng thể hiện quyết tâm đổi mới hệ thống chính trị: “Cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. Xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn…” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006).
Đại hội Đảng X nhấn mạnh: “Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp... Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội... Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001).
Kế thừa tinh thần Đại hội XI, XII, tại Đại hội XIII, Đảng tiếp tục coi quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong các quan hệ lớn cần giải quyết trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; khẳng định tiếp tục thực hiện “phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021) ; đồng thời đề ra nhiệm vụ “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021). Đồng thời “phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021).
Như vậy, hơn 35 năm thực hiện quá trình đổi mới, Đảng ta đặc biệt quan tâm nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện và ngày càng nâng cao, ổn định chính trị được giữ vững, nghĩa là sức ép về phát triển kinh tế không còn gay gắt như trước, Đảng ta chủ trương đổi mới toàn diện, đồng bộ cả kinh tế, chính trị và văn hóa, bảo đảm sự phát triển hài hòa, bền vững.
3. Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam
Thực tiễn hơn 35 năm đổi mới, từ chủ trương ưu tiên phát triển kinh tế, lấy “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt”, đến đổi mới toàn diện, đồng bộ cả kinh tế và chính trị, Đảng ta đã lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội đất nước đạt nhiều thành tựu quan trọng, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, trở thành nước có mức thu nhập trung bình thấp trên thế giới.
Về kinh tế, tăng trưởng kinh tế bứt phá, theo Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế-xã hội 5 năm, giai đoạn 1986-1990, 2011-2015 và 2016-202 cho thấy, sau giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), với mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua gần 20 năm với mức tăng trưởng rất ấn tượng. Trong những năm 2011-2015, do chịu tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và khủng hoảng nợ công, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam tuy đã chậm lại nhưng vẫn đạt gần 6%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới. Giao đoạn 2016-2020 tăng trưởng kinh tế bình quân 6,8%/năm.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, dưới sự lãnh đạo của Đảng đang tích cực được hoàn thiện, bộ máy quản lý nhà nước đã và đang được điều chỉnh theo hướng tinh giản, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế cũng được nhận thức lại đúng đắn hơn, đổi mới cả trong nhận thức và thực hiện phù hợp hơn với cơ chế thị trường.
Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích người dân làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo. An sinh xã hội cơ bản được bảo đảm; hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội phát triển khá đồng bộ, nhất là trong vấn đề giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, chính sách ưu đãi người có công, trợ giúp xã hội.
Trong thời kỳ đổi mới, thể chế kinh tế thị trường khách quan đòi hỏi nhà nước chuyển từ điều tiết trực tiếp mọi hoạt động kinh tế sang điều tiết gián tiếp đối với kinh tế vĩ mô, đồng thời phải sắp xếp lại bộ máy và nhân sự cho phù hợp. Xây dựng một chế độ chính trị dân chủ, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nâng cao quyền dân chủ của nhân dân. Giữ vững ổn định chính trị, hoà bình, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và hợp tác ngày càng rộng rãi của thế giới. Các cơ quan nhà nước, và chính quyền địa phương cần rà soát lại các thể chế, cơ chế, chính sách đã ban hành, mạnh dạn loại bỏ những cơ chế, văn bản không còn phù hợp; xây dựng các chính sách mới, tạo điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển, nhất là thành phần kinh tế tư nhân.
4. Kết luận
Đổi mới kinh tế mạnh mẽ đòi hỏi chính trị phải đổi mới cho tương thích. Nếu chỉ đổi mới kinh tế mà không đổi mới chính trị thì kinh tế sẽ bị cản trở, bị trói buộc trong thể chế cũ. Đổi mới kinh tế đòi hỏi phải mở rộng quyền lực của các tầng lớp nhân dân, của kinh tế tư nhân, phát huy tính tích cực của các doanh nghiệp. Nếu chính trị không đổi mới, bộ máy nhà nước sẽ nặng nề, chồng chéo, sinh ra nạn quan liêu, khiến các đơn vị cơ sở thụ động, các doanh nghiệp thui chột tính năng động, sáng tạo.
Sự phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi phải đẩy mạnh dân chủ hóa chính trị. Đổi mới chính trị sẽ làm cho thượng tầng kiến trúc phù hợp với yêu cầu khách quan của cơ sở hạ tầng, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, phát huy tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục đổi mới chính trị trên cơ sở đổi mới kinh tế, phục vụ phát triển kinh tế. Khi đổi mới kinh tế được triển khai toàn diện và sâu sắc sẽ đặt ra yêu cầu bức thiết là phải đổi mới chính trị tương ứng để phục vụ trực tiếp cho đổi mới kinh tế.
Thực tiễn cho thấy, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải cùng nhịp với nhau, dựa vào nhau, phối hợp với nhau. Đây là sự lựa chọn tốt nhất để giải quyết đúng đắn quan hệ đổi mới giữa hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội này. Xây dựng nền dân chủ phải dưới tiền đề chính trị ổn định, không chạy theo dâ chủ hình thức, không dập khuôn theo mô hình phương Tây. Không có môi trường chính trị - xã hội ổn định, mọi đổi mới sẽ thất bại, thành quả đã giành được cũng sẽ mất hết. Phải ngăn chặn các nhân tố có thể gây mất ổn định chính trị - xã hội, khủng hoảng kinh tế. Tiền đề là phải kiên trì thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân tố quan trọng nhất vẫn là phát triển bền vững, tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1987). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb Sự thật, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng, 273-274.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.
7. V.Lênin. (1977). Toàn tập. t.42, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.