Hẳn nhiên, khi loài người biết phân biệt đàn ông và đàn bà thì ý niệm về phái tính đã xuất hiện. Phái tính chỉ sự liên kết giữa giới và những bản tính đặc trưng cho từng phái riêng biệt và nó không ngừng được nhận diện trong đời sống cũng như trong tất cả các ngành khoa học. Trong hệ thuật ngữ liên quan đến phái tính, chúng tôi tạm đưa ra công thức dịch: Phái tính = phái (gender) + giống/giới/giới tính (sex). Như vậy, phái nam = nam giới (the male sex) + masculinity (tính nam/bản tính nam); phái nữ = nữ giới (the fair sex) + femility (tính nữ/bản tính nữ). Đến nay, trong từ điển tiếng Việt cũng như một số từ điển ngoại ngữ khác không hề có một thuật ngữ nào với hàm nghĩa khái quát như thế. Mặc dù vậy, phái tính và ý thức phái tính đã, đang và vẫn sẽ luôn hiện hữu trong mọi lĩnh vực của đời sống con người.