Đăng nhập

Top Panel
Trang nhấtGiáo dụcĐẠO NHÂN CỦA KHỔNG TỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN HIỆN NAY

ĐẠO NHÂN CỦA KHỔNG TỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN HIỆN NAY

Sunday, 20 October 2024 04:10

Ths. Trịnh Thị Thanh

Trường Đại học Giao thông vận tải, Hà Nội, Việt Nam.

This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Ths. Trần Thị Thảo Hiền

                                   Trường Cao đẳng Công thương TP. Hồ Chí Minh

Tóm tắt

Nho giáo ra đời trong hào khí “Bách gia chư tử, Bách gia tranh minh” của xã hội Xuân thu Chiến quốc. Là học thuyết có ảnh hưởng to lớn đối với Việt Nam về việc giáo dục đạo đức và hoàn thiện nhân cách con người trong lịch sử và cả với xã hội hiện đại ngày nay.

Từ khóa: Nho giáo, Khổng tử, giáo dục, đại học, sinh viên

1. Đặt vấn đề

Trong những năm gần đây với sự hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nền giáo dục Việt Nam cũng có bước chuyển mình quan trọng và đạt được những thành tựu nhất định. Bên cạnh đó, mặt trái của cơ chế thị trường cũng tác động tiêu cực đến đời sống, làm biến đổi thang giá trị đạo đức trong các quan hệ xã hội, điều đáng báo động là trong đó có cả các trường Đại học. Biểu hiện là một bộ phận không nhỏ sinh viên có những biểu hiện suy thoái về đạo đức và lối sống, gây nhiều hậu quả cho gia đình, nhà trường và xã hội. Vì vậy, việc kế thừa những gía trị tích cực của các giá trị đạo đức truyền thống trong giáo dục đạo đức cho sinh viên là vấn đề cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

2. Nội dung

2.1. Nội dung Đạo nhân của Khổng Tử

Nhân được cấu tạo bởi bộ “nhân” kết hợp với chữ “nhị” có nghĩa là đạo đức làm người. Đạo nhân của Khổng tử là một trong những phạm trù có ý ngĩa rộng lớn nhất và quan trọng nhất. Trong Luận ngữ Khổng Tử đã tùy từng hạng người mà giảng giải chữ nhân theo cách khác nhau.

2.1.1. Nhân là yêu người, thương người

Nhân là phạm trù cốt lõi trong đạo trị nước và đạo làm người của Khổng Tử. Nhân là yêu người, đạo làm người có hàng ngàn, hàng vạn người nhưng chung quy lại là chỉ những điều đối với mình và đối với người, nên nhân có thể hiểu là cách cư xử với mình và cách cư xử với người. Khi học trò của Khổng Tử là Phan Trì hỏi thế nào là nhân Khổng Tử trả lời nhân là ‘thương người’ (ái nhân), “điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác” (kỷ sở bất dục vật thi ư nhân). Mình muốn lập thân thì cũng giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt (Kỷ sở lập nhi lập nhân, kỷ sở đạt nhi đạt nhân). Tuy nhiên, khi Khổng Tử nói nhân đòi hỏi phải yêu người, thương người nhưng điều đó không có nghĩa là ông chủ trương yêu tha nhân một cách “mù quáng”. Đối với ông, việc yêu người còn phải có sự phân biệt thị phi, thiện ác. Như vậy, đạo nhân của Khổng Tử không chỉ mang ý nghĩa là yêu người, thương người mà còn góp phần hoàn thiện nhân cách con người.

2.1.2. Người có đức nhân là phải thực hiện Lễ

Theo Khổng Tử nhân là nội dung, lễ là hình thức của nhân và chính danh là con đường để đạt đến điều nhân. Người làm điều nhân trước hết phải khắc chế những điểm không tốt ở mình, gạt bỏ những dục vọng riêng tư làm được như vậy thì mới trở về với lễ của các thánh hiền xưa và có thể cảm hóa người khác.

Nhân muốn đi vào cuộc sống và trở thành lẽ sống của con người đòi hỏi phải có lễ. Lễ có nhiều nghĩa khác nhau, nhưng đối với Khổng Tử lễ chính là toàn bộ quy định về lễ nghi, thể chế chính trị, phong tục tập quán, quy tắc, đạo đức … để duy trì trật tự xã hội. Lễ là cơ sở của mọi hành động, không phải lễ là không nhìn, không phải lễ là không nghe, không phải lễ thì không hành động. Lễ là quy định và đảm bảo quyền hành của mỗi người. Lễ là mọi việc làm đâu phải ra đấy và khi thực hiện lễ mọi người phải thành kính. Khổng Tử nói: “Đời nay hễ thấy ai nuôi được cha mẹ thì người ta khen là có hiếu. Nhưng loài thú vật như chó ngựa người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên, nuôi nấng cha mẹ mà chẳng kính trọng có khác gì nuôi thú vật đâu - Kim chi hiếu giả, thị vị năng dưỡng. Muốn làm điều nhân trước hết phải “khắc kỷ, phục lễ”, tức chủ yếu phụ thuộc vào bản thân, phải tự mình hết sức nỗ lực, tự giác, hết sức cố gắng. Điều nhân phải xuất phát từ ý thức của mỗi cá nhân, không ai khiến mình làm điều nhân được Chính mình không khắc chế tật xấu, không trở lại khuôn phép thì không quay về với lễ và không thể đạt được nhân. Con người cần tránh những điều trái lễ. Nếu nhìn nghe, nói và làm những điều không hợp với phép tắc, lẽ phải thì con người sẽ dễ sa ngã, làm những điều xấu xa, tai hại.

Ngoài ra Khổng Tử còn chủ trương lấy lễ làm nền tảng cho tất cả nền đạo đức. Lễ mang tính chất như một cái thước đo lường, cái thước phát xuất từ nội tâm nhưng có thể đo được con người nhờ vào hình thức ở bên ngoài. Nói cách khác, nếu nhân là cái bản chất của đạo đức, thì nghĩa là cái thước đo, là cái mức, cái hình mà chỉ theo đó ta mới nhận ra được nhân. Khổng Tử cho rằng “Phi lễ phi thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động: sắc chi không hợp lễ thì mình đừng ngó, tiếng chi chẵng hợp lễ thì mình đừng nghe, lời chi chẳng hợp lễ thì mình đừng nói, việc chi chẳng hợp lễ thì mình đừng làm”[2, tr 181]. Lễ chỉ là những hình thức, nghi thức. Nhưng nếu nghi thức đó áp dụng sai, hay cho những người không xứng đáng thì một nghi lễ như vậy mất hết cả ý nghĩa của nó, và nó không thể phát huy được tinh thần của lễ. Người hiểu lễ trở thành con người đạo đức (quân tử). Vậy nên, lễ luôn phải đi với nghĩa, nhân phải có nghĩa, và ngay cả đạo cũng cần phải có nghĩa, mới có thể thực hiện được.      

2.1.3. Nhân gắn liền với Chính danh

Để thực hiện nhân và lễ, Khổng Tử đã nêu ra tư tưởng chính danh (danh nghĩa là tên gọi, danh phận, địa vị; chính có nghĩa là đúng, là chấn chỉnh lại cho đúng tên gọi và danh phận). Do đó, chính danh là làm cho mọi người ai ở địa vị nào, danh phận nào thì giữ đúng vị trí và danh phận của mình, cũng không dành vị trí của người khác, không lấn vượt và làm rối loạn. Ông cho rằng nguyên nhân hỗn loạn ở thời Xuân Thu là do thiên tử nhà Chu không làm tròn trách nhiệm (không làm đúng danh) để quyền lợi vào tay chư hầu; chư hầu không làm đúng danh nên sĩ đã lấn át. Vì vậy, để xã hội ổn định thì mọi người cần làm đúng danh phận.

Mục đích của chính danh mà Nho giáo đề cao là sự ổn định xã hội, suy cho cùng là để bảo vệ quyền của thiên tử, duy trì sự phân biệt đẳng cấp. Chính danh không những chỉ là nội dung tư tưởng chính trị của Nho giáo, mà còn mang ý nghĩa đạo đức, là một yêu cầu về mặt đạo đức của con người. Chúng ta biết rằng, một trong những phạm trù đạo đức đó là lương tâm, trách nhiệm. Nếu xét theo nghĩa này thì một người làm tròn nghĩa vụ và bổn phận của mình tức là người đó có đạo đức.

2.1.4. Đạo nhân là đạo của người quân tử

          Theo Khổng Tử nhân chính là một trong những tiêu chí hàng đầu cho sự phân biệt giữa quân tử và tiểu nhân. Nhân là yêu thương con người, là vì con người đã trở thành một trong những phẩm chất đóng vai trò gốc rễ, chủ đạo cho đạo đức của người quân tử. Với Khổng Tử, chỉ có người nhân mới có thể có được cuộc sống an vui lâu dài với lòng nhân của mình và dẫu có ở vào hoàn cảnh nào, cũng có thể yên ổn, thanh thản. Do vậy, theo ông, người nhân bậc quân tử không bao giờ lìa bỏ điều nhân, dẫu chỉ trong một bữa ăn. Người quân tử không bao giờ ở sai điều nhân, dẫu trong lúc vội vàng, khi ngả nghiêng cũng vẫn theo điều nhân. “Quân tử bỏ nhân thì sao thành danh được (quân tử khứ nhân, ố hồ thành danh).

Khi nói về quân tử Khổng Tử đòi hỏi quân tử phải đạt được chín điều là: Khi nhìn thì nhìn cho minh bạch; khi nghe thì lắng tai nghe cho rõ ràng; sắc mặt thì giữ cho ôn hòa; tướng mạo thì giữ cho khiêm cung; nói năng thì giữ bề trung thực; làm việc thì trọng sự kính cẩn; có điều nghi hoặc thì phải hỏi han; khi giận thì nghĩ đến sự hoạn nạn có thể xảy ra; khi thấy lợi liền nghĩ tới điều nghĩa (quân tử hữu cửu tư: thị tư minh; thính tư thông; sắc tư ôn, mạo tư cung, ngôn tư trung; sự tư kính; nghi tư vấn; phẫn tư nạn; kiến đắc tư nghĩa).

2.2.. Thực trạng đạo đức của sinh viên hiện nay

2.2.1. Những mặt tích cực

Sinh viên là những người năng động, sáng tạo, trong đầu họ luôn đầy ắp những ý tưởng độc đáo và thú vị và họ luôn tận dụng cơ hội để biến ý tưởng thành hiện thực. Sự năng động của sinh viên còn được thể hiện ở việc tích cực tham gia các hoạt động phong trào như: mùa hè xanh, xuân tình nguyện, công tác từ thiện, hiến máu nhân đạoBằng sự năng động sinh viên luôn tự cập nhật thông tin, kiến thức để tự làm mới mình phù hợp với sự phát triển của xã hội. Năng động và sáng tạo là ưu điểm nổi bật của sinh viên.

Sinh viên Việt Nam hầu hết đều được kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, có lối sống lành mạnh, trung thực, đoàn kết, nhân ái và có tính cộng đồng. Sinh viên có động cơ học tập nghiêm túc và tích cực; chủ động trong học tập và nghiên cứu khoa học, tích lũy kiến thức, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội.

Sự táo bạo và tự tin, dám nghĩ, dám làm, dám chịu thử thách cũng là ưu điểm nổi trội của sinh viên. Tinh thần siêng năng, cần cù, chịu thương, chịu khó ở một bộ phận sinh viên cũng là một điều đáng khích lệ. Nhiều sinh viên có hoàn cảnh khó khăn phải tự bươn chải làm thêm để tự lo việc học nhưng vn có thành tích học tập tốt.

2.2.2. Những mặt hạn chế

Bên cạnh đó, đạo đức của sinh viên hiện nay đang nổi cộm nhiều vấn đề đáng lo ngại.

Lòng yêu thương mang mọi người đến gần nhau hơn, làm cho các mối quan hệ xã hội càng thêm tốt đẹp. Tuy vậy, vẫn còn một số sinh viên không hiểu được tầm quan trọng của nó với cuộc sống hiện nay. Biểu hiện của điều này là thái độ sống thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm với mọi người xung quanh. Nhìn thấy một người già loay hoay tìm cách sang đường, họ làm ngơ như không thấy. Bạn bè gặp hoạn nạn đang cần họ giúp đỡ để vượt qua khó khăn họ làm như không biết, cố tình lảng tránh. Một bộ phận sinh viên có lối sống thiếu kỷ luật, ý thức học tập chưa cao biểu hiện ở những khía cạnh sau:

Một là, giờ học trên lớp nhiều sinh viên không tập trung vào bài giảng, thường xuyên làm việc riêng trong giờ học, đang học môn này thì lại học bài môn khác, lên mạng xã hội, đọc truyện, đọc báo trong giờ học thậm chí nhiều sinh viên còn chơi cờ, ngủ gật, giáo viên giảng không ghi bài…. Đến mùa thi sinh viên lại rủ nhau đi photo tài liệu hoặc mua tài liệu có sẵn tại các tiệm photo. Điều này phản ánh tình trạng lười học của sinh viên.

Hai là, một số sinh viên không chịu chấp hành nội quy, quy định của Nhà trường. Sinh viên đi muộn, về sớm, nghỉ học không có lý do, đánh nhau với bạn bè, không đeo thẻ, ăn mặc không đúng quy định, làm ồn trong lớp, phát biểu linh tinh, huýt sáo …

Ba là, tình trạng sinh viên tham gia cá độ bóng đá, lô đề, nhậu nhẹt đang khá phổ biến. Số khác lại lao vào các trò vô bổ trong thế giới ảo (như Võ lâm truyền kì, Đột kích, Audition...).

Ngoài ra, tính cá nhân, thực dụng trong hành vi ứng xử của một bộ phận không nhỏ sinh viên. Chủ nghĩa cá nhân có xu hướng ngày càng tăng trong giới trẻ ngày nay. Nhiều sinh viên chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân trước mắt mà quên đi lợi ích tập thể, thậm chí chà đạp lên lợi ích của người khác. Từ đó xuất hiện thái độ bàng quang với xung quanh. Sự vô cảm của sinh viên trước những vấn đề xã hội.

2.3. Ý nghĩa của vận dụng Đạo Nhân vào giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay

Đạo nhân của Khổng Tử mang giá trị nhân văn sâu sắc, giáo dục lòng thương yêu con người. Với ý nghĩa đó, lòng yêu thương đã giúp nhân dân ta vượt qua bao khó khăn, thử thách. Đối với sinh viên, nội dung ấy được thể hiện qua nhiều chương trình thiết thực như: mùa hè xanh, hiến máu nhân đạo, xuân tình nguyện, chương trình quyên góp đồng bào miền trung bị bão lụt… để giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn. Lòng yêu thương chính là một trong những hành trang cần thiết và quan trọng trong trên con đường đi của mỗi người.

Lễ của Khổng Tử với hệ thống các qui định chặt chẽ đã giúp con người có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn phép. Xét theo phương diện pháp luật thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực trong việc duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa. Ngoài ra, lễ để rèn luyện năng lực tiết chế cảm xúc hành vi trước những tác động của ngoại cảnh, góp phần điều chỉnh các mối quan hệ xã hội hài hòa. Lễ giúp sinh viên phân biệt trên dưới, tôn ti trật tự để sinh viên ý thức hơn trách nhiệm, bổn phận của mình.

Tư tưởng chính danh giúp cho con người xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội qua đó làm tròn nghĩa vụ và bổn phận của mình. Là sinh viên ngoài những quyền lợi của mình thì phải thực hiện hiện đầy đủ những nội quy, quy định của nhà trường.

Đạo nhân của Khổng Tử giáo dục sinh viên cần phải có lòng hiếu thảo với cha mẹ. Khổng Tử cho rằng con đối với cha mẹ phải lấy chữ hiếu làm đầu. Đạo hiếu theo Khổng Tử là “làm con chớ nên trái ngược” (Luận ngữ, Vi Chính, 5). Khi cha mẹ sống càng phụng sự cho có lễ, khi cha mẹ chết đi, phải chôn cất cho có lễ, khi cúng tế phải giữ đúng lễ… Trong đạo hiếu của con với cha mẹ, dù rất nhiều mặt nhưng cốt lõi phải ở tâm thành kính.

Để giáo dục những giá trị truyền thồng tốt đẹp cho sinh viên cần phải:

 Thứ nhất, thường xuyên chăm lo giáo dục đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh cho sinh viên. Chú trọng giáo dục làm cho sinh viên nhận thức đúng các giá trị chân, thiện, mỹ, những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nhà trường, gia đình, các tổ chức, đoàn thể, đặc biệt Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phải thường xuyên quan tâm bồi dưỡng cho sinh viên những tình cảm cao đẹp về tình yêu quê hương, đất nước: “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, “thương người như thể thương thân”, “quên mình vì nghĩa lớn”. Từ đó hình thành cho họ lối sống trong sạch, lành mạnh, những hành vi đạo đức trong sáng phù hợp với các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và thời đại. Để việc giáo dục bồi dưỡng có hiệu quả, Đoàn trường cần tổ chức tốt các phong trào: xuân tình nguyện, Chiến dịch mùa hè xanh…

 Thứ hai, phải kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng cùng chăm lo giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên, hình thành phẩm chất cao đẹp. Trước hết gia đình là nơi lưu giữ các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, là môi trường đầu tiên hình thành đạo đức cho sinh viên. Do đó trong gia đình, ông bà, cha mẹ phải thật sự mẫu mực, làm gương về đạo đức, yêu thương, chăm lo bồi dưỡng thế hệ trẻ. Để giáo dục đạo đức cho sinh viên, mỗi gia đình cần giữ gìn đạo đức, nề nếp gia phong, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống, làm cho các giá trị đó ngày càng toả sáng, góp phần bồi dưỡng tư tưởng tình cảm cao đẹp cho thế hệ con cháu. Nhà trường không chỉ dạy chữ, dạy nghề mà còn là nơi dạy người. Giáo dục lý tưởng, đạo lý làm người là nội dung giáo dục hàng đầu trong nhà trường hiện nay và phải đặc biệt coi trọng.

Thư ba, cần phát huy vai trò tự học tập, tự du dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của sinh viên. Sinh viên là lớp người trẻ, khoẻ, nhạy cảm với cái mới, cái tiến bộ. Phát huy vai trò của sinh viên trong tự học tập, tự tu dưỡng đạo đức lối sống là biện pháp quan trọng giúp họ nhanh chóng tiến bộ, trưởng thành. Đó còn là điều kiện quyết định kết quả rèn luyện của mỗi cá nhân. Trước hết phải hình thành cho sinh viên nhu cầu, động cơ phấn đấu, rèn luyện đúng đắn, làm cho mỗi người có ý thức làm chủ, ham học hỏi, cầu tiến bộ, vươn lên tự khẳng định mình. Cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để sinh viên phấn đấu, rèn luyện; đồng thời phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả, định hướng phấn đấu cho sinh viên. Bản thân mỗi người tự giác rèn luyện, biết tự kiềm chế, biết vượt qua những cám dỗ và tiêu cực xã hội, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, thực dụng, lợi mình hại người. Sinh viên cần phải tự tin vào chính mình, giữ vững niềm tin trong cuộc sống, vào các giá trị chân, thiện, mỹ.

3. Kết luận

Như vậy, Đạo nhân của Khổng Tử có vai trò quan trọng trong việc giáo dục những giá trị tốt đẹp cho sinh viên, đó lòng thương yêu con người, những quy tắc trong cư xử giữa người với người… Trong thời kỳ CNH, HĐH, hội nhập kinh tế thế giới để góp phần đào tạo, giáo dục sinh viên vừa "hồng", vừa "chuyên", chủ nhân tương lai đưa nước nhà vững bước tiến cùng các dân tộc tiên tiến, xứng đáng với mong ước của Bác Hồ kính yêu. Giáo dục là quốc sách hàng đầu, thì việc giáo dục đạo đức chính là trang đầu của quốc sách ấy thì cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

  1. 1.Doãn Chính (2009), Từ điển triết học Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
  2. 2.Đoàn Trung Còn (dịch giả), (2006), Tứ thư, Nxb Thuận Hóa.
  3. 3.Đường Đắc Dương (2003), Cội nguồn văn hóa Trung Hoa, Nxb Hội nhà văn.
  4. 4.Nguyễn Hiến Lê (1991), Khổng Tử, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
  5. 5.Khổng Tử (2007), Kinh thi, Quyển 1, Nxb Văn học.
  6. 6.Khổng Tử (2007), Kinh thi, Quyển 2, Nxb Văn học.
  7. 7.Khổng Tử (2004), Kinh thư (Trần Lê Sáng - Phạm Kì Nam dịch), Nxb Văn hóa-Thông tin, Hà Nội.
  8. 8.Khổng Tử (2007), Kinh lễ, NxbVăn học.
Last modified on

Bình luận

Leave a comment

Tìm kiếm

Điện thoại liên hệ: 024 62946516