Đăng nhập

Top Panel
Trang nhấtGiáo dụcTỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ, XÃ HỘI CỦA TRẺ EM TRONG CÁC GIA ĐÌNH ĐƠN THÂN VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ TỪ GÓC NHÌN CÔNG TÁC XÃ HỘI

TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ, XÃ HỘI CỦA TRẺ EM TRONG CÁC GIA ĐÌNH ĐƠN THÂN VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ TỪ GÓC NHÌN CÔNG TÁC XÃ HỘI

Wednesday, 20 August 2025 19:33
Bài đăng trên Tạp chí Giáo dục và Xã hội Số 173 (234), Tháng 8/2025 (kì 1).

ĐỖ THỊ THU PHƯƠNG 

Học viện Phụ nữ Việt Nam

Nhận bài ngày 02/7/2025. Sửa chữa xong 05/8/2025. Duyệt đăng 09/8/2025.

Abstract 

Children require care and attention from both their families and society. Those living in single-parent families possess distinct psychological and social characteristics that warrant particular attention. This article reviews international and domestic literature on these characteristics, identifying commonalities in emotional states, behavior, cognitive abilities, social relationships, and participation in community activities. Based on these insights, it proposes several recommendations for supporting children and single-parent families from a social work perspective.

Keywords: Children in single-parent families, psychological and social characteristics, single-parent families, social work.

1. Đặt vấn đề

Gia đình có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự phát triển của cá nhân [18]. Gia đình là tế bào của xã hội và hôn nhân là nền tảng của xã hội. Tuy nhiên ngày càng có ít người trưởng thành kết hôn, nhiều người lớn ly hôn hơn và nhiều người lớn chọn làm cha mẹ đơn thân hoặc chung sống [7]. Một gia đình cha/mẹ đơn thân bao gồm một người cha hay một người mẹ đơđộc và sống với một hay nhiều người con độc thân (người con đó không có con). Hình thái gia đình này bao gồm những người góa, độc thân, ly hôn/ly thân sống với con của mình [16]. Theo các tác giả Gucciardi, Celasun và Steward thì “cha mẹ đơn thân (single parent) bao gồm những người chưa bao giờ kết hôn, hoặc đã ly thân, ly dị, góa bụa và hiện tại chỉ sống với con chứ không sống với người phối ngẫu được thừa nhận về mặt pháp luật” [20, tr. 50]. Trẻ em sống trong các gia đình đơn thân có những đặc điểm về tình cảm, hành vi, khả năng nhận thức, mối quan hệ xã hội, sự tham gia vào các hoạt động xã hội cần được quan tâm. Vì vậy, bài viết đã tổng hợp từ kết quả nghiên cứu về trẻ em trong các gia đình đơn thân nhằm thấy được những đặc điểm riêng cần quan tâm ở nhóm trẻ này và đưa ra một số khuyến nghị cho việc hỗ trợ trẻ em  gia đình trong các gia đình đơn thân.

2. Đặc điểm tâm lý - xã hội của trẻ em sống trong các gia đình đơn thân

2.1. Đặc điểm về tình cảm

Trẻ em trong các gia đình đơn thân thường phải đối diện với nhiều thách thức, đặc biệt trong giai đoạn phát triển tâm lý - xã hội. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nhóm trẻ này có nguy cơ cao hơn gặp phải những vấn đề cảm xúc tiêu cực như trầm cảm, lo âung thẳng kéo dài và hành vi hung hăng hơn so với những trẻ lớn lên trong môi trường gia đình đầy đủ bố mẹ. Cụ thể, nghiên cứu của Ladan Hashemi & Halleh Homayuni (2017), Stephen E. N. & Udisi L. (2016), cùng với nghiên cứu tại Việt Nam của Huỳnh Văn Sơn và Nguyễn Thị Diễm My (2019) cho thấy trẻ em trong gia đình có cha mẹ ly hôn dễ có biểu hiện bất ổn về cảm xúc. Những bất ổn này có thể biểu hiện qua sự thu mình, thiếu tự tin, cảm giác bị bỏ rơi hoặc ngược lại là xu hướng phản kháng xã hội, chống đối và dễ nổi nóng. Trẻ thường cảm thấy cô đơn, mất phương hướng trong cuộc sống do thiếu sự kết nối tình cảm ổn định từ cha hoặc mẹ. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Lipman, E. L., Boyle, M. H., Dooley, M. D., & Offord, D. R. (2002) cho thấy trẻ em trong các gia đình đơn thân, đặc biệt là sau ly hôn có nguy cơ mắc các rối loạn tâm lý xã hội cao hơđáng kể. Những rối loạn này không chỉ ảnh hưởng đến hành vi và thành tích học tập mà còn ảnh hưởng lâu dài đến quá trình hình thành nhân cách, kỹ năng xã hội và các mối quan hệ trong tương lai.

Một minh chứng cụ thể trong bối cảnh Việt Nam là nghiên cứu của Nguyễn Duy Khánh (2019), trong đó chỉ ra rằng 67% trẻ em có cha mẹ ly hôn cảm thấy buồn bã, chán nản với cuộc sống hiện tại và cho rằng cuộc sống của mình rơi vào bế tắc. 52% trẻ có biểu hiện hụt hẫng, mất niềm tin vào tương lai, rơi vào trạng thái lo âu hoặc stress kéo dài. Đáng chú ý, 26% trẻ tỏ ra sợ hãi khi nghĩ đến việc lập gia đình trong tương lai và 13% có biểu hiện nóng nảy, dễ cáu gắt, điều này cho thấy những ảnh hưởng của ly hôn không chỉ mang tính tức thời mà còn có thể để lại dư chấn lâu dài đến đời sống tâm lý và tình cảm của trẻ.

Sự thiếu vắng của một người cha hoặc mẹ trong đời sống hằng ngày khiến trẻ dễ rơi vào trạng thái thiếu an toàn về mặt cảm xúc. Một số trẻ có thể cảm thấy mình bị bỏ rơi hoặc không còn được yêu thương như trước, dẫn đến sự sụt giảm lòng tự trọng và gia tăng cảm giác cô lập. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, nếu mối quan hệ giữa cha mẹ sau ly hôn vẫn tiếp tục xung đột, điều đó sẽ càng làm trầm trọng thêm các phản ứng tiêu cực của trẻ. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố nhưđộ tuổi của trẻ khi cha mẹ ly hôn, mức độ xung đột giữa cha mẹ, sự hỗ trợ từ gia đình mở rộng (ông bà, cô dì, anh chị), môi trường học đường, đặc biệt là cách cha mẹ xử lý mối quan hệ với con cái sau ly hôn. Những trẻ được sống trong môi trường ít xung đột, có sự quan tâm, chia sẻ tích cực từ người lớn và được hỗ trợ tâm lý phù hợp, sẽ có khả năng thích ứng và vượt qua khó khăn tốt hơn.

2.2. Đặc điểm về nhận thức và quá trình học tập

Việc thiếu vắng một trong hai người cha hoặc mẹ trong quá trình lớn lên đã được chứng minh là yếu tố làm suy giảm khả năng tập trung, hứng thú học tập và hiệu quả tiếp nhận tri thức của trẻ. Theo nghiên cứu của Nguyễn Hữu Minh (2012) và Varga I. (2021), trẻ em sống trong gia đình đơn thân thường có nhận thức kém và kết quả học tập dưới mức trung bình so với trẻ em sống trong gia đình đầy đủ bố mẹ. Điều này có thể lý giải bởi việc mất đi sự giám sát và hỗ trợ học tập từ một trong hai phụ huynh, cùng với các áp lực tâm lý mà trẻ phải đối diện sau ly hôn đã làm giảm đáng kể sự tập trung và động lực học tập. 

Fagan và Churchill (2012) cũng nhận định rằng ly hôn là một trong những nguyên nhân làm giảm khả năng học tập của trẻ. Những trẻ trong gia đình ly hôn thường mất đi một phần hỗ trợ học tập và định hướng từ cha hoặc mẹ, đồng thời dễ bị chi phối bởi các cảm xúc tiêu cực như lo âu, buồn chán, bất ổn tâm lý - những yếu tố trực tiếp cản trở quá trình tiếp thu kiến thức. Trên thực tế, nghiên cứu tại Việt Nam của Nguyễn Duy Khánh (2019) cho thấy nhiều trẻ có biểu hiện sa sút học tập, giảm sút hứng thú học hành và gặp khó khăn trong việc theo kịp chương trình học sau khi cha mẹ ly hôn.

De Lange, Dronkers & Wolbers (2014) chỉ ra rằng sống trong gia đình đơn thân có ảnh hưởng tiêu cực rõ rệt đến thành tích học tập của trẻ. Các em có xu hướng giảm sút trong kết quả học tập, dễ bị tuột hạng và có nguy cơ bỏ học cao hơn. Đặc biệt, nghiên cứu của Anthony, DiPerna và Amato (2014) nhấn mạnh ảnh hưởng tiêu cực của ly hôn lên kết quả học tập của trẻ tăng dần theo độ tuổi, tức là trẻ càng lớn thì càng cảm nhận rõ hơn sự thiếu hụt trong môi trường gia đình, dẫn đến sự suy giảm cả về tâm lý họcđường lẫn kết quả học tập thực tế.

Hoàng Văn Dũng (2017) đã tổng kết việc cha mẹ ly hôn có tác động tiêu cực rõ rệt đến quá trình học tập của trẻ em, làm giảm khả năng thành công trong học đường, đồng thời khiến thời gian dành cho học tập của trẻ cũng ít hơn do bị phân tán thời gian và năng lượng vào việc thích nghi với những thay đổi trong đời sống gia đình. Ngoài ra, trẻ sống trong gia đình đơn thân còn dễ bị xao nhãng bởi những trách nhiệm mới (ví dụ: phải phụ giúp việc nhà, chăm sóc em nhỏ, tự lập sớm...), làm cho việc học không còn là ưu tiên hàng đầu.

Sự thay đổi môi trường sống, xáo trộn trong lịch sinh hoạt, cùng với áp lực tâm lý từ việc phải di chuyển giữa hai gia đình (trong trường hợp sống luân phiên hoặc xa cha/mẹ) cũng là yếu tố làm gia tăng sự mất tập trung và thiếu ổn định trong quá trình học tập. Trẻ có thể cảm thấy mất phương hướng, thiếu động lực vươn lên, thậm chí mất niềm tin vào giá trị của tri thức và con đường học vấn. Tuy nhiên, không phải tất cả trẻ em có cha mẹ ly hôn đều thất bại trong học tập. Với sự hỗ trợ phù hợp từ nhà trường, cộng đồng và đặc biệt là từ chính các phụ huynh sau ly hôn (nếu duy trì được sự phối hợp nuôi dạy tích cực), nhiều trẻ vẫn có khả năng thích nghi và đạt kết quả tốt. Điều này phụ thuộc lớn vào mức độ xung đột trong ly hôn, cách thức cha mẹ truyền đạt và giải thích vấn đề cũng như khả năng cung cấp môi trường học tập ổn định sau ly hôn.

2.3. Đặc điểm về hành vi

Nhiều nghiên cứu chỉ ra trẻ sống trong gia đình đơn thân dễ có biểu hiện hành vi không phù hợp, từ các hành vi lệch chuẩn trong giao tiếp đến các hành vi nguy cơ cao ảnh hưởng đến sức khỏe và đạo đức xã hội.

Theo Varga I. (2021), trẻ sống trong gia đình đơn thân thường phát triển hành vi kém, biểu hiện ở việc thiếu kiểm soát cảm xúc, dễ nổi nóng, thiếu kỹ năng giải quyết xung đột và vi phạm các chuẩn mực xã hội. Trẻ có thể trở nên bướng bỉnh, thách thức người lớn hoặc ngược lại là thu mình, dễ bị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài. Đáng lưu ý, nghiên cứu này cũng chỉ ra trẻ em gái thường ít vấn đề về hành vi hơn so với trẻ em trai, cho thấy giới tính có thể đóng vai trò điều tiết mức độ biểu hiện hành vi lệch chuẩn.

Nguyễn Hữu Minh (2012) cho biết nhiều trẻ trong gia đình đơn thân gặp trục trặc hành vi nghiêm trọng, đặc biệt là ở độ tuổi vị thành niên - giai đoạn trẻ có nhu cầu khẳng định bản thân nhưng thiếu định hướng từ cha hoặc mẹ. Một trong những biểu hiện nguy hiểm là tỷ lệ mang thai ở tuổi vị thành niên tăng cao, đặc biệt ở những trẻ thiếu sự giám sát, chăm sóc từ gia đình và dễ bị tác động bởi bạn bè xấu hoặc môi trường thiếu lành mạnh.

Tình trạng sử dụng chất kích thích như rượu, cần sa, ma túy ở thanh thiếu niên có cha mẹ ly hôn cũng là một vấn đề đáng báo động. Theo Fagan & Churchill (2012), Arkes (2013) và Stephen & Udisi (2016), trẻ trong nhóm này có nguy cơ sử dụng rượu và các chất gây nghiện cao hơn so với trẻ sống trong môi trường gia đình đầy đủ. Đặc biệt, các hành vi nguy cơ này thường xuất hiện rõ rệt hơn ở độ tuổi lớn hơn, khi trẻ bắt đầu có khả năng hành động độc lập nhưng thiếu định hướng và kỷ luật từ gia đình.

Tại Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Duy Khánh (2019) phản ánh một thực trạng không thể bỏ qua: nhiều trẻ em trong gia đình ly hôn có xu hướng dễ bị cám dỗ, sa ngã vào các hoạt động tiêu cực. Trẻ dành nhiều thời gian cho các thú vui ảo như game online, Facebook, Zalo không chỉ làm xao nhãng việc học tập mà còn tạo điều kiện để trẻ bị dụ dỗ, lôi kéo sử dụng rượu, bia, thuốc lá, ma túy, thậm chí vi phạm pháp luật. Sự thiếu kiểm soát và định hướng từ người lớn trong gia đình là một trong những nguyên nhân khiến trẻ dễ trở thành mục tiêu của các nhóm đối tượng xấu trong xã hội.

Thêm vào đó, một số trẻ còn biểu hiện rối loạn hành vi mang tính xung đột hoặc chống đối xã hội, như bạo lực học đường, vi phạm nội quy trường học, thậm chí vi phạm pháp luật. Các biểu hiện này thường là hệ quả của sự dồn nén cảm xúc kéo dài, thiếu kỹ năng tự điều chỉnh và thiếu những hình mẫu tích cực trong quá trình trưởng thành. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận một cách khách quan rằng không phải mọi trẻ em trong gia đình đơn thân đều có hành vi lệch chuẩn. Yếu tố bảo vệ như sự gắn bó bền vững với người chăm sóc chính, sự hỗ trợ tích cực từ nhà trường, môi trường cộng đồng lành mạnh và các dịch vụ tư vấn tâm lý có thể giúp trẻ phát triển ổn định và tránh được các ảnh hưởng tiêu cực.

2.4. Đặc điểm về mối quan hệ  hội và sự tham gia vào các hoạt động xã hội

Trong các gia đình đơn thân hoặc khuyết thiếu, điều kiện kinh tế thường khó khăn hơn do một người phải đảm đương toàn bộ gánh nặng tài chính và chăm sóc gia đình. Theo Nguyễn Hữu Minh (2012), sự thiếu hụt nguồn lực không chỉ ảnh hưởng đến đời sống vật chất mà còn dẫn đến sự thiếu vắng chăm sóc và kết nối tình cảm, khiến trẻ dễ bị bỏ rơi, sống lang thang, thiếu định hướng và dễ bị xâm hại hoặc dụ dỗ vào các hoạt động nguy hiểm như mại dâm. Đây là hệ quả của sự đứt gãy trong hệ thống hỗ trợ xã hội sơ cấp mà gia đình lẽ ra cần cung cấp cho trẻ. Không chỉ vậy, thời gian hạn chế của cha hoặc mẹ đơn thân trong việc đồng hành cùng con cái cũng dẫn đến việc trẻ ít có cơ hội tham gia các hoạt động xã hội, như sinh hoạt nhóm, vui chơi, thể thao, ngoại khóa hay hoạt động cộng đồng. Theo nghiên cứu của Walker, Crawford & Taylor (2008), học sinh trong các gia đình đơn thân dễ rơi vào trạng thái bị loại trừ khỏi các nhóm bạn, không được hòa nhập vào các hoạt động tập thể và dần cảm thấy cô lập. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển các kỹ năng xã hội như giao tiếp, hợp tác, giải quyết xung đột và thích nghi với môi trường đa dạng.

Nguyễn Duy Khánh (2019) cũng khẳng định rằng nhiều trẻ trong hoàn cảnh này gặp khó khăn trong việc thiết lập và duy trì các mối quan hệ xã hội, do thiếu sự chỉ dẫn, hỗ trợ tâm lý từ gia đình. Trẻ dễ rơi vào trạng thái khép kín, mất niềm tin vào người khác hoặc ngược lại có xu hướng tìm kiếm sự công nhận ở những nhóm không chính thức, tiềm ẩn nhiều nguy cơ tiêu cực. Bên cạnh đó, sự thiếu hụt điều kiện sống cơ bản như kinh tế, nhà ở và chăm sóc sức khỏe vốn phổ biến trong các gia đình đơn thân tiếp tục làm trầm trọng hơn cảm giác bị thiệt thòi và lạc lõng của trẻ trong các mối quan hệ xã hội [3]. Trẻ có thể mặc cảm với bạn bè, cảm thấy tự ti, và do đó không tích cực tham gia vào các hoạt động tập thể.

Theo Hilton & Desrochers (2002), áp lực lớn đối với cha mẹ đơn thân trong việc vừa kiếm sống, vừa nuôi dạy con mà thiếu sự hỗ trợ từ người còn lại, khiến cho việc kiểm soát hành vi của trẻ bị suy giảm. Môi trường thiếu ổn định và kỷ luật này ảnh hưởng đến khả năng xây dựng và duy trì mối quan hệ tích cực của trẻ với cộng đồng và bạn bè cùng trang lứa.

Một phát hiện đáng chú ý từ Clark, Sawyer, Nguyen & Baghurst (1993) cho thấy trẻ nam nhỏ tuổi sống trong gia đình đơn thân có nhiều hành vi hướng ngoại tiêu cực hơn trẻ sống trong gia đình đầy đủ. Những hành vi này có thể cản trở khả năng hòa nhập xã hội, dễ dẫn đến xung đột trong các mối quan hệ bạn bè, thậm chí bị cô lập hoặc kỳ thị trong môi trường học đường.

Tình trạng thiếu liên kết xã hội còn dẫn đến những hệ lụy dài hạn. Theo Stephen & Udisi (2016), sự thiếu hụt trong mối quan hệ cha mẹ làm tăng nguy cơ trẻ em bỏ học, mất kết nối với thị trường lao động, rơi vào nghèo đói và có khả năng trở thành cha mẹ ở tuổi vị thành niên. Tất cả những hậu quả này đều gắn liền với sự suy yếu trong khả năng xây dựng và duy trì các mối quan hệ xã hội lành mạnh, điều mà một gia đình ổn định và đầy đủ thường hỗ trợ rất hiệu quả.

3. Một số khuyến nghị nhằm hỗ trợ cho trẻ em và gia đình đơn thân từ góc nhìn công tác xã hội

Gia đình đơn thân với tư cách là một hiện tượng xã hội ngày càng phổ biến trong xã hội hiện đại đã đang đặt ra nhiều thách thức đối với quá trình nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Theo Jun-qing (2020), gia đình đơn thân có ảnh hưởng quan trọng đến sự trưởng thành và phát triển toàn diện của trẻ, đặc biệt trong các khía cạnh tâm lý, xã hội và hành vi. Trẻ sống trong các gia đình không toàn vẹn thường phải đối mặt với hàng loạt vấn đề như rối loạn chú ý, lo âu, trầm cảm, thu mình, khó khăn trong tư duy và giao tiếp xã hội, thậm chí có các rối loạn tâm thể [19].

Fagan và Churchill (2012) nhấn mạnh việc cha mẹ ly hôn thường gây ra những tác hại khó khắc phục, đặc biệt đối với trẻ em - những đối tượng chịu tổn thương sâu sắc nhưng lại ít có khả năng tự bảo vệ. Nguyễn Duy Khánh (2019) cũng chỉ rõ ly hôn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển tâm sinh lý, thay đổi xã hội và tiềm năng phát triển bền vững của trẻ em. Hậu quả lâu dài của ly hôn không chỉ là sự phát triển không toàn diện về thể chất và tinh thần mà còn là sự suy giảm mối quan hệ và sự tôn trọng giữa con cái và cha mẹ trong tương lai [18].

Dựa trên những đặc điểm tâm lý, xã hội và hành vi đã được phân tích ở trẻ em trong các gia đình đơn thân, thiết nghĩ cần có một hệ thống giải pháp đồng bộ, đa ngành nhằm hỗ trợ nhóm đối tượng này một cách hiệu quả. Một số khuyến nghị cụ thể được đề xuất như sau:

3.1. Hoàn thiện chính sách pháp lý và hỗ trợ phụ huynh đơn thân trong nuôi dạy con cái

Cần xây dựng và cụ thể hóa các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ trong việc nuôi dạy con sau ly hôn, đặc biệt với các bậc cha/mẹ đơn thân. Điều này bao gồm việc đảm bảo quyền lợi của cả phụ huynh và trẻ em trong việc tiếp cận giáo dục, chăm sóc y tế và môi trường sống ổn định. Burgund, Pantelić  Milanović (2013) cho rằng cần thiết phải thiết lập các cơ chế hỗ trợ, tư vấn và cung cấp thông tin liên quan đến việc chăm sóc - nuôi dạy trẻ trong các gia đình đơn thân, đặc biệt là các bà mẹ đơn thân. Nguyễn Hữu Minh (2012) cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người mẹ và trẻ em trong các vụ ly hôn.

3.2. Tăng cường sự tham gia của xã hội và giảm kỳ thị đối với trẻ em trong gia đình đơn thân

Trẻ em trong các gia đình đơn thân thường phải đối mặt với sự kỳ thị hoặc định kiến xã hội, điều này cản trở khả năng hòa nhập và phát triển bình thường. Vì vậy, cần nâng cao nhận thức cộng đồng, xóa bỏ phân biệt đối xử đối với các gia đình đơn thân, đặc biệt trong môi trường học đường và cộng đồng dân cư. Jun-qing (2020) kêu gọi toàn xã hội cần quan tâm đến sự phát triển và giáo dục của trẻ em từ các gia đình đơn thân thông qua việc cung cấp các dịch vụ xã hội phù hợp. Đồng thời, cần xây dựng các mô hình hỗ trợ đặc thù như mạng lưới kết nối các bà mẹ đơn thân, trung tâm hỗ trợ tâm lý - giáo dục cho trẻ trong các hoàn cảnh đặc biệt [4].

3.3. Giáo dục và hỗ trợ kỹ năng làm cha mẹ, nâng cao năng lực nuôi dạy con

Một trong những yếu tố then chốt giúp trẻ trong gia đình đơn thân phát triển lành mạnh là năng lực làm cha/mẹ. Cần phát triển các chương trình đào tạo, tư vấn tâm lý -  hội, cung cấp kiến thức và kỹng giáo dục con cái cho phụ huynh đơn thân, bao gồm cả khía cạnh nuôi dưỡng, kỷ luật tích cực, truyền thông cảm xúc và định hướng giá trị. Jun-qing (2020) cho rằng cần đặc biệt chú trọng lồng ghép tình yêu thương trong quá trình giáo dục, giúp xây dựng bầu không khí gia đình tích cực, hỗ trợ trẻ về mặt tinh thần. Nguyễn Hữu Minh (2012) cũng nhấn mạnh vai trò của việc duy trì mối quan tâm và trách nhiệm của cả hai cha mẹ đối với con cái, ngay cả sau khi đã ly hôn.

4. Kết luận 

Như vậy, mặc dù không thể đánh đồng hoàn toàn tất cả trẻ em trong các gia đình đơn thân như một nhóm đồng nhất nhưng nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước đều chỉ ra rằng các em thường gặp nhiều bất lợi hơn so với trẻ sống trong gia đình đầy đủ cả cha lẫn mẹ. Sự thiếu hụt về mặt tình cảm, sự hỗ trợ kép trong nuôi dạy, đôi khi là cả khó khăn về tài chính có thể tạo nên môi trường phát triển kém ổn định, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển tâm sinh lý và khả năng hòa nhập xã hội của trẻ. Trước thực tế đó, vấn đề hỗ trợ trẻ em trong các gia đình đơn thân không nên chỉ được xem là trách nhiệm cá nhân của người làm cha, mẹ đơn thân mà cần được nhìn nhận như một nhiệm vụ xã hội với sự tham gia của Nhà nước, cộng đồng, hệ thống giáo dục và các tổ chức xã hội nhằm đảm bảo mọi trẻ em đều có cơ hội phát triển công bằng, toàn diện, bất kể hoàn cảnh gia đình. Cần phải khẳng định rằng, quyền được chăm sóc, giáo dục, bảo vệ và phát triển là quyền của tất cả trẻ em, không phụ thuộc vào cấu trúc gia đình của các em.  vậy, trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về gia đình và trẻ em nhất thiết phải có những quy định riêng hoặc nội dung cụ thể đề cập đến trẻ em trong các gia đình đơn thân. Những nội dung này cần xác định rõ trách nhiệm của các bên liên quan trong việc chăm sóc, giáo dục, hỗ trợ tâm lý -  hội cho trẻ em cũng như đảm bảo các quyền lợi thiết yếu về giáo dục, y tế, an sinh và bảo vệ trước các nguy cơ bị tổn thương, phân biệt đối xử hoặc bị bỏ rơi. Bên cạnh đó, cần phát triển các chương trình can thiệp và hỗ trợ trực tiếp cho cha mẹ đơn thân - những người thường gánh vác áp lực kép trong nuôi dạy con giúp họ nâng cao năng lực làm cha mẹ, cân bằng công việc và chăm sóc con cái cũng như tăng cường sự kết nối xã hội để tạo ra môi trường nuôi dưỡng tích cực hơn.

Cuối cùng, thay vì giữ quan điểm cứng nhắc về mô hình gia đình “chuẩn mực”, xã hội cần có cách tiếp cận linh hoạt, nhân văn và dựa trên quyền trẻ em, coi trọng chất lượng chăm sóc, yêu thương và giáo dục mà trẻ nhận được hơn là hình thức hay cấu trúc gia đình mà trẻ đang sống. Chỉ khi làm được điều đó chúng ta mới thực sự đảm bảo được sự phát triển toàn diện và công bằng cho mọi trẻ em bao gồm cả những em đang lớn lên trong các gia đình đơn thân.

 

Tài liệu tham khảo 

[1] Anthony, C. J., DiPerna, J. C., & Amato, P. R. (2014), Divorce, approaches to learning, and children’s academic achievement: A longitudinal analisis of mediated and moderated effects, Journal of school psychology, 52(3), pp. 249-261. 

[2] Arkes, J. (2013), The temporal effects of parental divorce on youth substance use, Substance Use & Misuse, 48(3), pp. 290-297. 

[3] Bianchi, S. M. (2014), The changing demographic and socioeconomic characteristics of single parent families. In Single Parent Families, pp. 71-97. 

[4] Burgund, A., Pantelić, M., & Milanović, M. (2013), Single-Parent Families-Social Status, Needs and Challenges, Human Research in Rehabilitation, 3(1), pp. 13-22. 

[5] Clark, J. J., Sawyer, M. G., Nguyen, A. M., & Baghurst, P. A. (1993), Emotional and behavioural problems experienced by children living in single‐parent families: A pilot study, Journal of paediatrics and child health, 29(5), pp. 338-343. 

[6] De Lange, M., Dronkers, J., & Wolbers, M. H. (2014), “Single-parent family forms and children’s educational performance in a comparative perspective: Effects of school’s share of single-parent families”, School Effectiveness and School Improvement, 25(3), pp. 329-350. 

[7] Fagan, P. F., & Churchill, A. (2012), The effects of divorce on children, Marri Research, pp. 1-48. 

[8] Hilton, J. M., & Desrochers, S. (2002), Children’s behavior problems in single-parent and married-parent families: Development of a predictive model, Journal of divorce & remarriage, 37(1-2), pp. 13-36. 

[9] Jun-qing, F. (2020), The Causes and Solutions on the Problems of Child Rearing in Single-Parent Family. In 2020 4th International Seminar on Education, Management and Social Sciences (ISEMSS 2020). Atlantis Press, pp. 1231-1234. 

[10]  Ladan Hashemi & Halleh Homayuni. (2017), Emotional Divorce: Child’s Well-Being, Journal of Divorce & Remarriage, pp. 631-644. 

[11]  Lipman, E. L., Boyle, M. H., Dooley, M. D., & Offord, D. R. (2002), Child well-being in single-mother families, Journal of the American Academy of Child & Adolescent Psychiatry, 41(1), pp. 75-82. 

[12]  Stephen, E. N., & Udisi, L. (2016), Single-parent families and their impact on children: A study of Amassoma community in Bayelsa State. Eur J Res Soc Sci, 4. 

[13]  Varga, I. (2021), The Impact of Single-Parent Families’ Social Vulnerabilities on Children. The Annals of the University of Oradea. Economic Sciences, 30(2nd). 

[14]  Walker, J., Crawford, K., & Taylor, F. (2008), Listening to children: gaining a perspective of the experiences of poverty and social exclusion from children and young people of single‐parent families, Health & Social Care in the Community, 16(4), pp. 429-436. 

[15]  Hoàng Văn Dũng (2017), Ly hôn và tác động ly hôn/ly thân của cha mẹ đến kết quả học tập của con cái ở Pháp, Tạp chí Xã hội học, số 4 (140), tr. 107-119. 

[16]  Hoàng Văn Dũng (2018), Tìm hiểu ba hình thái gia đình ở Pháp: Gia đình hạt nhân, gia đình đơn thân và gia đình tái tạo lập, Tạp chí Xã hội học, số 2 (142), tr. 86-101.

[17] Nguyễn Duy Khánh (2019), Công tác xã hội với trẻ em trong các gia đình sau ly hôn tại huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang, Tạp chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, số 38 tháng 6, tr. 59-66.

[18] Nguyễn Hữu Minh (2012), Các mối quan hệ trong gia đình ở Việt Nam: Một số vấn đề cần quan tâm, Tạp chí Xã hội học, số 4 (120), tr. 91-100.

[19]  Huỳnh Văn Sơn, Nguyễn Thị Diễm My (2019), Một số biểu hiện tổn thương tâm lí của trẻ sống trong gia đình không toàn vẹn tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học Giáo dục Việt Nam, số 15 tháng 3, tr. 6-11.

[20] Lê Minh Tiến (2020), Sự biến đổi xã hội từ góc nhìn xã hội học vi mô qua hai hiện tượng: Bà mẹ đơn thân và hôn nhân đồng tính,Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(5), tr. 49-55.

 

 

Bình luận

Leave a comment

Tìm kiếm

Điện thoại liên hệ: 024 62946516