ĐỖ THỊ TÂM
Học viện Cảnh sát nhân dân
Nhận bài ngày 03/7/2025. Sửa chữa xong 03/8/2025. Duyệt đăng 08/8/2025.
Abstract
In the cause of comprehensive national renovation in the direction of socialism, our Party has identified comprehensive Party building and rectification as a key task, because a clean and strong Party in terms of politics, ideology, ethics, organization, and cadres is a matter of survival and a decisive factor for the Party's leadership role and the existence of the regime. This article proposes several solutions to contribute to strengthening Party building in terms of politics and ideology in the new period.
Keywords: Solution, strengthen, Party building, politics, ideology.
1. Đặt vấn đề
Sứ mệnh lịch sử của Đảng ta trong thời kỳ phát triển mới của đất nước được Đại hội XIII xác định: Lãnh đạo khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng XHCN. Để hoàn thành thắng lợi trọng trách lịch sử này trong những năm tới, Đảng ta phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta xác định xây dựng chỉnh đốn Đảng toàn diện là nhiệm vụ then chốt, vì Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ là vấn đề sống còn, nhân tố quyết định đến vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ XHCN mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta lựa chọn. Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng giữ vai trò trọng yếu trong quá trình hoạt động của Đảng. Muốn xác định đúng nhiệm vụ và những giải pháp khả thi nhằm nâng cao chất lượng xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng trong thời kỳ mới, trước hết cần thống nhất nhận thức quan niệm về chính trị, tư tưởng, về xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, về công tác chính trị, tư tưởng.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Thực trạng xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong lãnh đạo tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối Đảng ta đặc biệt chú trọng trước hết là nghiêncứu, học tập, quán triệt nghị quyết, bảo đảm tính kịp thời, hiệu quả từ Trung ương đến cơ sở. Cấp ủy, tổchức đảng đã kịp thời cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành nghị quyết, chỉ thị, đề án, kếhoạch, chương trình hành động sát với tình hình thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng đã ban hành nghị quyết chuyên đề để lãnh đạo thực hiện hiệu quả nhiệm vụ trọng tâm, khâu đột phá; khắc phục điểm yếu, giải quyết kịp thời vấn đề phức tạp của địa phương, cơ quan, đơn vị.
Chú trọng việc phân công tổ chức đảng, đảng viên trong hệ thống chính trị thực hiện. Đây là sự cụ thể hóa nguyên tắc “Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” của Đảng và “kế hoạch 10 phần thì biện pháp phải 20 phần và quyết tâm 30 phần” theo lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng phải được chuyển hóa thành chính sách và pháp luật của Nhà nước, được tổ chức thực hiện thông qua vai trò tổ chức, quản lý của Nhà nước do Đảng lãnh đạo. Cấp ủy, tổ chức đảng với chức năng, nhiệm vụ theo quy định, phải lãnh đạo cụ thể hóa nghị quyết thành chính sách, pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn, phân công, phân cấp, bố trí cán bộ, kiểm tra việc thực hiện và sơ kết, tổng kết đúng như V. I. Lênin đã từng nói, sau khi có đường lối đúng, việc “Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt; nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”. Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cấp ủy đã tập trung lãnh đạo, tổ chức thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị bằng chương trình, kế hoạch, đề án để nghị quyết sớm đi vào cuộc sống. Đặc biệt chú trọng nguyên tắc “Một cơ quan thực hiện nhiều việc và một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính” theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” [1, tr. 554]. Vì vậy, để tổ chức thực hiện đường lối, cấp ủy, tổ chức đảng đều chú trọng việc nâng cao năng lực thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, khắc phục khuyết điểm đã được chỉ rõ qua nhiều nhiệm kỳ đại hội: Việc tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu; qua đó, khắc phục việc thể chế hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ, kịp thời hoặc đã thể chế nhưng không khả thi; những biểu hiện trì trệ, tình trạng né tránh trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, điều hành và tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng. Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới, quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần:
30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đại hội XII của Đảng đánh giá đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH, trở thành nước đang phát triển, cóthu nhập trung bình. Gần 10 năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016-2020 vẫn đạt khoảng 5,9%/năm; giai đoạn 2021-2025: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân dự kiến khoảng 6,5% - 7%/năm. Như vậy, so với trước khi tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam là một nước nghèo, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra gay gắt, tỷ lệ lạm phát có lúc lên đến 774,7%, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trung bình khoảng gần 7% mỗi năm. GDP Việt Nam năm 2024 đạt 476,3 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng GDP vượt mức 7% (tăng 18,11 lần so với trước thời kỳ đổi mới), đứng thứ 33 trong nhóm 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người tiếp tục tăng nhanh, đạt 4.700 USD năm 2024 (tăng 58 lần so với trước đổi mới).
Nền kinh tế Việt Nam không chỉ đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế mà còn bảo đảm tính định hướng XHCN. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm nhanh và liên tục qua các năm, còn 5,71% vào năm 2023 (trước đổi mới, khoảng ¾ dân số sống ở mức nghèo khổ) [2]. Chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục cải thiện, đạt 0,73 điểm năm 2023, cao hơn nhiều so với các nước có cùng mức thu nhập. Tuổi thọ bình quân tăng nhanh: năm 1970 là 61 tuổi; năm 1993 là 65,5 tuổi và năm 2023 là 74,5 tuổi [3]. Diện mạo xã hội và đời sống nhân dân ngày càng khởi sắc; tình hình chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được củng cố, giữ vững môi trường hòa bình để phát triển đất nước; vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam tiếp tục được nâng cao, tăng khả năng giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị có nhiều tiến bộ. Ngay từ đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định “Đảng phải trưởng thành về lãnh đạo chính trị, phát triển và cụ thể hóa đường lối, đề ra những giải pháp đúng đắn đối với những vấn đề mới của sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệTổ quốc. Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực tổ chức thực tiễn Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác” [4, tr. 74]. Những nhiệm kỳ tiếp theo đều có nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng. Công tác xây dựng Đảng được xác định là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (tháng 6/1992) đã khẳng định: “Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta phải khẩn trương tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận mệnh chế độ ta và Đảng ta”. Đảng nhận thức rõ hơn về yêucầu Đảng thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Tuy nhiên, vẫn còn một số khuyết điểm cần sớm khắc phục: Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về tầm quan trọng của xây dựng Đảng về chính trị. Chậm khắc phục tình trạng ban hành nhiều văn bản, một số văn bản còn chung chung, dàn trải, chậm bổ sung, sửa đổi, thay thế. Việc thể chế hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước còn chậm, chưa sát thực tế hoặc đã thể chế nhưng không khả thi. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số chủ trương, nghị quyết có nơi, có lúc chưa quyết liệt, còn yếu kém, chậm trễ nhưng chưa xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu. Công tác vận động, giáo dục, thuyết phục đảng viên và nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có mặt còn hạn chế. Nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức chính trị - xã hội chậm đổi mới, có biểu hiện hành chính hóa. Đặc biệt, vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên CNXH ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng.
2.2. Giải pháp tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng trong giai đoạn mới
2.2.1. Tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội về kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo nền tảng tư tưởng của Đảng
Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng là xác lập, bồi đắp vững chắc nền tảng tư tưởng nhằm tạo sự thống nhất trong Đảng, bởi vì, sự thống nhất về chính trị, tư tưởng là cơ sở của sự thống nhất về hành động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. “Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng tiếp tục được tăng cường; công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng... được chú trọng, đổi mới, góp phần tạo sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, đồng thuận trong xã hội”. Đây là thắng lợi của lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo, bên cạnh kết quả to lớn trong xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng cũng đã xuất hiện tư tưởng cơ hội chính trị, vụ lợi, lợi ích nhóm, chủ nghĩa cá nhân, bè phái, bất mãn… nảy sinh trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; đặc biệt là biểu hiện của sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đại hội XIII chỉ ra cụ thể: “Nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên về một số chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn chưa sâu sắc, thiếu thống nhất, do vậy một số công việc triển khai thiếu kiên quyết, còn lúng túng” [5, tr. 108]. “Một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên CNXH ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng”. Từ thực tếđó, Đảng nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toànquân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đây là một trong những “Vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”. Quán triệt quan điểm chỉđạo này trong thực tiễn, Đảng chủ trương phải “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáodục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề tư tưởng trong Đảng, trong xã hội. Chú trọng nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nhấn mạnh: “Đảng Cộng sản Việt Nam phải luôn coi việc giữ gìn đoàn kết thống nhất trên cơ sở đường lối chính trị và các nguyên tắc xây dựng Đảng là sinh mệnh của Đảng; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái, gây mất đoàn kết trong Đảng” [6, tr. 39]. Đây là điều kiện tiên quyết để quy tụ, tập hợp, đoàn kết thống nhất các tầng lớp nhân dân, bởi vì, chỉ có Đảng lãnh đạo trên cơ sở kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủnghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thì “lòng dân” mới thống nhất với “ý Đảng”; nhân dân mới tin tưởng, ủng hộ, phấn đấu và đem hết sức mình phục vụ cho sự nghiệp chung của dân tộc, mới kết hợp được sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.
2.2.2. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo công tác tư tưởng gắn với tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng đã quán triệt lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, về mối quan hệ giữa phương thức lãnh đạo công tác tư tưởng của Đảng với công tác tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Về những kết quả đạt được, Đảng khẳng định: “Việc ban hành chủ trương, nghị quyết của Đảng đã bám sát thực tiễn, phát huy dân chủ, gắn với xây dựng kế hoạch và chỉ đạo tổ chức thực hiện quyết liệt”. Trong thực tiễn đã xuất hiện nhiều cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu chủ động, quyết liệt trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ tư tưởng, góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo, uy tín của các tổ chức đảng. Bên cạnh chuyển biến tích cực, quá trình tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn còn những hạn chế, bất cập. Đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng chưa gương mẫu, còn buông lỏng công táctư tưởng, chưa chú trọng công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục; chưa phát huy dân chủ trong thảo luận, tranh luận, đối thoại, lấy ý kiến tập thể, việc tổ chức thực hiện còn bất cập, làm suy giảm vai trò lãnh đạo và tính chiến đấu của Đảng. “Việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ, kịp thời. Từ nhận định trên, Đại hội XIII của Đảng chủtrương: “Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng nâng cao năng lực dự báo, tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương; đổi mới việc xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng các nghị quyết của Đảng; khắc phục tình trạng ban hành nghị quyết chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi. Đồng thời, nâng cao năng lực thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả”. Nhiệm vụ quan trọng là phải tập trung khắc phục những khâu yếu kém trong việc ban hành và thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu trong việc thực hiện ban hành chủ trương, tổ chức thực hiện và đánh giá kết quả. Đặc biệt, việc xây dựng chủ trương, nghị quyết phải bảo đảm tính khoa học, phát huy dân chủ và năng lực trí tuệ của tập thể, của đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Trong đánh giá hiệu quả, phải lấy tính khả thi, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội của chủ trương, nghị quyết làm tiêu chí.
2.2.3. Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu và phát triển nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng
Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác tư tưởng. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng nhấn mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận là nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thông qua phân tích, đánh giá những kết quả thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thực tiễn, lý luận được bổ sung và phát triển. Qua gần 40 năm đổi mới, Đảng thường xuyên tiến hành tổng kết thực tiễn để hoàn thiện lý luận vềđường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, về mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội,... và từng bước hiện thực hóa. Kết quả to lớn đó được Đảng khẳng định: “Hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát triển. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh, góp phần cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng” [7, tr. 277]. Tuy nhiên, việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận của Đảng vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập. Đến nay còn không ít vấn đề lý luận và thực tiễn mới, khó chưa được luận chứng khoa học đầy đủ, cụ thể, cần phải tiếp tục bám sát thực tiễn, đi sâu nghiên cứu, thảo luận, tổng kết để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận mới nhằm nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục, tạo ra sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động. Về vấn đề này, Đảng chỉ rõ: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng được yêu cầu, một số vấn đề mới, khó, phức tạp chưa được làm sáng tỏ” đã làm hạn chế vai trò dẫn đường, tiên phong của tư tưởng, lý luận và vai trò lãnh đạo của Đảng. Để khắc phục những bất cập, hạn chế đó, Đảng đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp thực hiện: “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tổng kết thực tiễn 40 năm đổi mới để bổ sung, phát triển lý luận của Đảng. Tiếp tục bổ sung, phát triển hệ thống các quan điểm về CNXH và con đường đi lênCNXH ở Việt Nam... Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu các vấn đề lý luận khó, phức tạp phát sinh từ thực tiễn hoặc tồn tại trong thời gian dài; những vấn đề chưa rõ về cơ sở lý luận, còn có nhiều ý kiến khác nhau”. Tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận phải đứng trên lập trường phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng để làm sáng tỏ những vấn đề của thực tiễn đặt ra, nhất là những vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, cấp bách, mới, khó, phức tạp, nhạy cảm, dư luận xã hội quan tâm.
2.2.4. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ,đảng viên trong tình hình mới
Giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ cơ bản, cấp bách trong công tác tư tưởng của Đảng góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đến nay, “Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị được đổi mới cả về nội dung và phương pháp; tăng cường quản lý, kỷ luật trong giảng dạy, học tập; chất lượng đào tạo, bồi dưỡng được nâng lên; từng bước khắc phục tình trạng lười học, ngại học Lý luận chính trị, dạy và học hình thức”, vì vậy, đã góp phần nâng cao trình độ lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, bản lĩnh chính trị đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, khắc phục được những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Bên cạnh đó, Đảng cũng đã chỉ ra hạn chế: “việc giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên; một bộ phận đảng viên chưa nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng. Việc học tập Lý luận chính trị tuy có nhiều cốgắng nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu”. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tựdiễn biến”, “tự chuyển hóa”. Để khắc phục hạn chế nêu trên, Đại hội XIII của Đảng đề ra nhiệm vụ và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị: “Đổi mới căn bản nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục Lý luận chính trị theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn; đưa việc bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp đi vào nền nếp, nâng cao chất lượng, hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa học tập lý luận với rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn để nâng cao bản lĩnh chính trị; khắc phục tình trạng ngại học, lười học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên”. Theo đó, các cấp ủy đảng phải nâng cao nhận thức về vai trò, mục tiêu, nhiệm vụ, trách nhiệm, thái độ, động cơ học tập đúng đắn cho cán bộ, đảng viên. Quán triệt đầy đủ, sâu sắc nghị quyết, chỉ thị và tổ chức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Có biện pháp kiên quyết khắc phục tình trạng lười học, ngại học Lý luận chính trị. Phải căn cứ vào tình hình cụ thể về trình độ lý luận của cán bộ, đảng viên trong chi bộ, đảng bộ, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo đúng quy chế học tập gắn với quy hoạch và xây dựng đội ngũ cán bộ.
3. Kết luận
Từ khi thành lập, Đảng ta đã xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín của mình bằng chính bản lĩnh, nghị lực, trí tuệ, lý luận tiên phong; bằng đường lối đúng đắn mang lại lợi ích thiết thân cho nhân dân, cho đất nước; bằng sự nêu gương, hy sinh quên mình, phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ, đảng viên; bằng tổ chức đoàn kết, thống nhất chặt chẽ, vững chắc; bằng mối liên hệ “máu thịt” với nhân dân, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo vệ. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thách thức và đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Với bản lĩnh đã được tôi luyện trong thực tiễn cách mạng, nhất định Đảng ta sẽ hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử mà Nhân dân giao phó. Mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng nhằm làm mất uy tín, danh dự, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp, dân tộc và xã hội nhất định sẽ bị vạch trần và bác bỏ. Trong bối cảnh hiện nay cần kế thừa và phát triển những bài học kinh nghiệm quý trong lãnh đạo, chỉ đạo Nhân dân ta phấn đấu giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý luận để nhận thức ngày càng sâu sắc hơn vai trò lãnh đạo của Đảng; không ngừng bổ sung, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực cơ chế, nguyên tắc lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối với Nhà nước, xã hội trong giai đoạn cách mạng mới.
Tài liệu tham khảo
[1] Hồ Chí Minh Toàn tập (tập 8, 2011), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[2] Ngân Anh (2024), Tỷ lệ nghèo đa chiều cả nước năm 2023 là 5,71%, nguồn: https://nhandan.vn/, ngày 12/02/2024.
[3] Lê Anh (2023), Phát triển bền vững lấy con người làm trọng tâm, nguồn: https://nhandan.vn/, ngày 24/6/2023.
[4] Hồ Chí Minh Toàn tập (tập 20, 2011), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[5] Hồ Chí Minh Toàn tập (tập 24, 2011), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[6] Nguyễn Phú Trọng (2023), Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[7] Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.