Khoa Lý luận, lịch sử nhà nước và pháp luật,
Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà nội
Nhận bài ngày 21/02/2025. Sửa chữa xong 04/02/2025. Duyệt đăng 27/02/2025.
Abstract: The Draft Law on Teachers is a significant step toward protecting teachers' rights and improving their quality. This article analyzes five key issues: overlap with existing laws, lack of transparent supervision, insufficient emphasis on practical competencies, inadequate legal protection for teachers, and inflexible policies for educators in remote areas. The author proposes clarifying the law's distinct features, strengthening enforcement mechanisms, and implementing practical support and flexible policies. These solutions ensure feasibility and enhance teachers' status, aligning with the goal of sustainable educational development.
Keywords: Law on Teachers, teachers’ rights and obligations, teacher protection, teacher competency, teacher ethics.
1. Đặt vấn đề
Giáo viên không chỉ là những người truyền đạt tri thức mà còn là trụ cột của nền giáo dục, góp phần định hình tương lai của đất nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh giáo dục ngày càng phát triển, đội ngũ nhà giáo tại Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức, từ quyền lợi pháp lý chưa được bảo vệ đầy đủ đến những áp lực xã hội ngày càng gia tăng. Dự thảo Luật Nhà giáo ra đời như một nỗ lực nhằm tạo hành lang pháp lý riêng biệt cho nghề giáo, nhưng liệu nó đã thực sự đáp ứng được kỳ vọng? Vẫn còn nhiều vấn đề cần hoàn thiện, như sự chồng chéo với các luật hiện hành, thiếu cơ chế giám sát minh bạch hay quy định cứng nhắc về tiêu chuẩn giáo viên (GV). Vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện dự thảo luật là điều cần thiết để đảm bảo tính khả thi và nâng cao vị thế nhà giáo trong xã hội. Bài viết phân tích năm nhóm vấn đề quan trọng và đề xuất giải pháp để Luật Nhà giáo thực sự trở thành công cụ bảo vệ và phát triển đội ngũ GV một cách bền vững.
2. Những bất cập trong dự thảo Luật Nhà giáo
2.1. Cơ sở pháp lý và tính cần thiết của dự thảo
Trước hết cần phải khẳng định rằng Luật Nhà giáo là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam [1]. Việc có một Luật Nhà giáo sẽ tạo nền tảng pháp lý vững chắc để nâng cao chất lượng giáo dục, bảo vệ quyền lợi của nhà giáo, và góp phần xây dựng hệ thống giáo dục công bằng, minh bạch, và phát triển bền vững trong bối cảnh mới [1]. Tuy nhiên, các nội dung về quyền và nghĩa vụ của nhà giáo, cơ chế đảm bảo thực thi các quyền và nghĩa vụ đó phải được quy định rõ ràng, cụ thể trong văn bản pháp luật trong lĩnh vực giáo dục có giá trị cao nhất [2].
Điều 1 [2] chưa làm rõ sự phân biệt giữa các nhóm nhà giáo ở các cấp học và lĩnh vực giáo dục khác nhau, từ GV mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông cho đến giảng viên đại học và giáo dục nghề nghiệp. Thực tế, mỗi nhóm nhà giáo có những yêu cầu và điều kiện làm việc khác nhau, do đó, cần có quy định chi tiết hơn về từng nhóm đối tượng trong các điều khoản cụ thể của luật. Điều 1 cũng thiếu quy định về môi trường làm việc của nhà giáo, bao gồm điều kiện cơ sở vật chất, các yếu tố tác động đến sức khỏe và tâm lý của nhà giáo và vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy và sáng tạo trong giảng dạy.
Quy định này cũng chưa đủ làm nổi bật sự khác biệt và sự tương thích của nó với các luật hiện hành có liên quan, chẳng hạn như Luật Giáo dục, Luật Viên chức, và các quy định khác liên quan đến công chức, viên chức trong hệ thống nhà nước[3]. Các vấn đề như tuyển dụng, sử dụng và đào tạo nhà giáo đã được đề cập trong Luật Viên chức và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Tuy nhiên, Dự thảo Luật Nhà giáo chưa có những quy định đặc thù, chi tiết nhằm khắc phục những bất cập hiện tại, ví dụ như sự linh hoạt trong tuyển dụng và phát triển nghề nghiệp của nhà giáo.
2.2. Bất cập trong cụ thể hóa các quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của nhà giáo
Khoản 2 Điều 8[4] quy định quyền của nhà giáo có những điểm tích cực trong việc bảo đảm quyền lợi của nhà giáo, tuy nhiên cũng tồn tại một số bất cập có thể gây khó khăn khi áp dụng thực tiễn. Chẳng hạn, Điểm a có đoạn “a) Được giảng dạy, giáo dục phù hợp với chuyên môn đào tạo; được nhận xét, đánh giá, khen thưởng, xử lý kỷ luật người học theo quy định” chưa rõ ràng về giới hạn và trách nhiệm. Việc xử lý kỷ luật người học theo quy định nhưng không nêu rõ các bước thực hiện có thể dẫn đến việc lạm dụng quyền hoặc gây tranh cãi. Tiếp đó, điểm quy định “chủ động phân phối thời lượng và sắp xếp nội dung theo chương trình giáo dục” cũng có thể gây khó khăn trong việc đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong trong hệ thống giáo dục quốc dân, nơi chương trình cần thống nhất giữa các cơ sở. Hay điểm d quy định quyền “được tôn trọng, bảo vệ nhân phẩm, danh dự, thân thể” nhưng lại không đi kèm với các biện pháp bảo vệ cụ thể hoặc cách thức xử lý khi quyền này bị xâm phạm. Điểm e quy định GV có quyền “được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ” cần được cụ thể hóa bằng các cơ chế, tiêu chí rõ ràng, nếu không sẽ dễ dẫn đến sự không công bằng hoặc hình thức. Tiếp đó điểm đ quy định nhà giáo có quyền “được nghỉ hè và các ngày nghỉ khác theo quy định”. Quy định này sẽ bất cập, đặc biệt với các bậc học không có lịch hè cố định (như giáo dục thường xuyên, dạy nghề hoặc dạy đại học có thêm học kỳ phụ vào mùa hè như hiện nay). Quyền được phát triển chuyên môn nghiệp vụ trong dự thảo cũng chưa được nêu rõ. Dự thảo luật cũng chưa chú ý tới các yếu tố tác động tới sự tham gia các hoạt động phát triển nghề nghiệp của nhà giáo như: Nội dung phát triển nghề nghiệp, cộng đồng học tập, nhận thức của GV, thời gian, chi phí, quản lí và lãnh đạo [3].
Quy định tại Điều 9 về nghĩa vụ của nhà giáo[5] được liệt kê rất chi tiết, nhưng quy định không gắn nghĩa vụ này với các quyền lợi tương ứng. Điểm a: Cụm từ "đúng mục tiêu, nguyên lý giáo dục" và "có chất lượng" mang tính định tính, chưa có tiêu chí cụ thể để đánh giá. Điểm b có cụm từ “giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự, đạo đức nhà giáo” và “mẫu mực, nêu gương” không được định nghĩa rõ, gây khó khăn trong việc áp dụng thực tế, đặc biệt trong bối cảnh đạo đức và giá trị xã hội thay đổi qua thời gian. Quy định về nhiệm vụ “thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học” (điểm đ) phù hợp với giảng viên đại học, nhưng đối với giáo viên ở các cấp học phổ thông, nội dung này có thể không thực sự thiết thực. Khoản g: Nghĩa vụ "chịu trách nhiệm pháp lý nếu có hành vi vi phạm" chưa được mô tả rõ các hành vi cụ thể. Ví dụ: Một số vi phạm có thể xảy ra do lỗi hệ thống (như sự thiếu hụt tài liệu, trang thiết bị) nhưng trách nhiệm lại quy về cá nhân nhà giáo, gây bất công. Điểm c: Nghĩa vụ “tôn trọng, đối xử công bằng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người học” không chỉ rõ cách thức thực hiện. Điểm e: “Xây dựng môi trường giáo dục an toàn, dân chủ, đổi mới, sáng tạo” không có hướng dẫn cụ thể về cách thực hiện, đặc biệt trong các tình huống môi trường giáo dục chưa đáp ứng điều kiện cơ sở vật chất hoặc chính sách hỗ trợ sẽ gây khó khăn cho nhà giáo.
Khoản 1 Điều 9 phân biệt nghĩa vụ dựa trên quy định pháp luật về viên chức (đối với nhà giáo công lập) và pháp luật lao động (đối với nhà giáo ngoài công lập) có thể gây ra sự bất bình đẳng. Nhà giáo ngoài công lập có thể bị hạn chế về quyền lợi nhưng lại phải thực hiện nghĩa vụ tương đương.
Về mức lương của nhà giáo, đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng các quốc gia trên thế giới đều áp dụng chính sách ưu đãi đối với nhà giáo, đặc biệt một chính sách về tiền lương theo hướng đảm bảo thu nhập của nhà giáo phải tương xứng với vị trí, trách nhiệm được giao [4]. Hiện nay, Điểm a Khoản 1 Điều 27 quy định rằng: “Lương của nhà giáo được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp” và có phụ cấp ưu đãi. Quy định này chưa có điều kiện đảm bảo kèm theo.
2.3. Bất cập trong vấn đề đào tạo, bồi dưỡng và tuyển dụng nhà giáo
Dự thảo quy định về tiêu chuẩn nhà giáo có thể quá tập trung vào bằng cấp mà chưa đánh giá đầy đủ năng lực thực tế và đạo đức nghề nghiệp.
Điều 32[6] yêu cầu chuẩn trình độ đối với từng cấp học. Tiêu chuẩn này nếu nhìn trên phương diện chung thì dường như là phù hợp, nhưng tiêu chuẩn này cũng có thể gây áp lực đối với GV vùng sâu, vùng xa, nơi khó tiếp cận đào tạo nâng cao.
2.4. Bất cập về cơ chế kỷ luật và cơ chế bảo vệ nhà giáo
Điểm d khoản 2 Điều 8 quy định: nhà giáo có quyền “d) Được tôn trọng, bảo vệ nhân phẩm, danh dự, thân thể khi thực hiện hoạt động nghề nghiệp; được đối xử bình đẳng trong hoạt động và phát triển nghề nghiệp”. Vậy cơ chế xử lý hoặc cơ quan chịu trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của nhà giáo khi nhân phẩm, danh dự hoặc thân thể bị xâm phạm là gì? Nếu bị xâm phạm từ nhiều nguồn rất khác nhau (như phụ huynh, học sinh, đồng nghiệp, lãnh đạo nhà trường), xử lý như thế nào? Trách nhiệm của các bên liên quan của nhà trường, trách nhiệm của công đoàn, của ban thanh tra nhân dân hoặc cơ quan quản lý giáo dục như thế nào? Hơn nữa, quy định này cũng thiếu sự liên kết hoặc tham chiếu rõ ràng đến các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật dân sự, Bộ luật Hình sự hay Luật Giáo dục, dẫn đến khả năng chồng chéo hoặc mâu thuẫn khi áp dụng, thiếu cả việc tích hợp xây dựng chế tài về xử lí vi phạm, xử lí kỉ luật nhà giáo khi có dấu hiệu vi phạm [5].
Những quy định này cũng chưa làm rõ việc trên thực tế có những hành vi sử dụng việc đánh giá nhà giáo để thực hiện các hành vi trù dập, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Cần có quy định cụ thể về vấn đề này để bảo vệ quyền lợi và phẩm giá của nhà giáo trong quá trình công tác [6].
2.5. Bất cập về tính thực tiễn của dự thảo luật
Khoản 1 Điều 16[7] về tuyển dụng nhà giáo nhấn mạnh việc phải có thực hành sư phạm trong quá trình thi tuyển. Chúng tôi cho rằng cần bổ sung cơ chế giám sát để đảm bảo quá trình công bằng và hiệu quả khi thực hiện yêu cầu “thực hành sư phạm”. Mặc dù dự thảo có đề cập đến việc bảo vệ quyền lợi của nhà giáo, nhưng lại thiếu các cơ chế giám sát và đánh giá thực tế để đảm bảo những quyền lợi này được thực thi.
Dự thảo thiếu các biện pháp cụ thể để thực thi quyền của nhà giáo trong thực tế. Ví dụ, việc nhà giáo bị xúc phạm hoặc bị xử lý không công bằng vẫn chưa có quy định rõ ràng về các cơ chế bảo vệ họ khỏi những áp lực xã hội, không gian làm việc có thể không an toàn hoặc thiếu hỗ trợ.
Dự thảo thiếu vắng quy định cụ thể về việc nâng cao năng lực nghề nghiệp của nhà giáo qua các chương trình đào tạo thường xuyên. Điều này có thể dẫn đến tình trạng giảng dạy lỗi thời, thiếu sự đổi mới và sáng tạo trong phương pháp giảng dạy.
3. Giải pháp hoàn thiện
3.2. Làm rõ sự khác biệt và tính đặc thù của Luật Nhà giáo so với các luật hiện hành, làm rõ phạm vi điều chỉnh ở Điều 1
Chúng tôi nhất trí về sự cần thiết của Luật Nhà giáo. Đúng như Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Quyên Thanh cho rằng dự thảo Luật đã thể hiện được những chính sách tương xứng với cống hiến của thầy cô giáo, đồng thời đề nghị bổ sung các quy định cụ thể để bảo vệ danh dự, nhân phẩm của nhà giáo[8]. Luật Nhà giáo cần xác định rõ sự khác biệt so với Luật Giáo dục và Luật Viên chức, nhấn mạnh các điểm đặc thù như chế độ tiền lương, thăng hạng chức danh và chuẩn nghề nghiệp. Cần bổ sung nội dung so sánh trực tiếp để tránh chồng chéo.
Luật cần mở rộng định nghĩa về nhà giáo, bao gồm vai trò tư vấn, nghiên cứu và hoạt động giáo dục ngoài lớp học. Phạm vi điều chỉnh nên bao quát các nhiệm vụ đặc thù của nghề giáo, không chỉ giảng dạy.
Bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi nhà giáo cần được quy định cụ thể hơn, bao gồm chế tài xử lý hành vi xâm phạm danh dự, thân thể nhà giáo. Luật cần có cơ chế bảo vệ nhà giáo trong môi trường làm việc, yêu cầu trách nhiệm rõ ràng từ nhà trường và cơ quan quản lý giáo dục.
Chính sách đãi ngộ phải thể hiện tính đặc thù của nghề giáo, như phụ cấp thâm niên, hỗ trợ đào tạo, nghiên cứu và đảm bảo quyền tiếp cận bình đẳng trong nghề nghiệp. Đồng thời, quy định rõ hơn về chuẩn mực đạo đức, tinh thần khai phóng, kỷ luật, trách nhiệm giáo dục nhân cách học sinh. Những mục tiêu trên của giáo dục không thể đạt được nếu như không có một nền giáo dục xuất phát từ những nền tảng đạo đức đúng đắn của nhà giáo. Những chuẩn mực đạo đức của người dạy cần được định hình và ứng dụng trong quá trình dạy học để đạt được mục tiêu giáo dục như có trách nhiệm với nghề nghiệp, có tinh thần khai phóng và tính kỉ luật [7].
Cần phân loại rõ ràng nhà giáo theo cấp học và môi trường giáo dục (mầm non, phổ thông, đại học, giáo dục nghề nghiệp), kèm theo quy định phù hợp với từng nhóm. Ví dụ: GV mầm non cần được đảm bảo môi trường làm việc an toàn, trong khi giảng viên đại học cần có chính sách hỗ trợ nghiên cứu. Luật cũng cần quy định về cơ sở vật chất giảng dạy đạt tiêu chuẩn tối thiểu và hỗ trợ nhà giáo tại vùng khó khăn, bao gồm phụ cấp vùng miền, nhà ở công vụ, chính sách đào tạo tại địa phương.
3.3. Xử lý bất cập trong quy định về quyền và nghĩa vụ của nhà giáo, bổ sung cơ chế giám sát và đánh giá minh bạch
Điều 8 cần chi tiết hóa quyền, trách nhiệm nhà giáo, làm rõ cơ chế bảo vệ khi quyền lợi bị xâm phạm, hỗ trợ pháp lý và đảm bảo phân phối thời gian giảng dạy, nghỉ hè hợp lý.
Điều 9 cần cụ thể hóa các khái niệm định tính (như "đúng mục tiêu", "nêu gương"), điều chỉnh quy định nghiên cứu khoa học theo cấp học, tăng tính đồng bộ giữa quyền và nghĩa vụ, đồng thời có cơ chế bảo vệ nhà giáo trong tranh chấp.
Dự thảo hiện quy định đánh giá nhà giáo theo chuẩn nghề nghiệp (Điều 26) nhưng thiếu cơ chế giám sát thực tế. Đề xuất thành lập Hội đồng Giám sát độc lập, yêu cầu báo cáo minh bạch định kỳ từ cơ sở giáo dục và xây dựng cổng thông tin trực tuyến để tiếp nhận phản hồi.
Cần làm rõ mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ. Đề xuất bảng tổng hợp gắn kết từng quyền lợi với trách nhiệm tương ứng (ví dụ: quyền đào tạo - nghĩa vụ nâng cao trình độ; quyền bảo vệ danh dự - nghĩa vụ nêu gương). Đồng thời, các nghĩa vụ định tính như "mẫu mực" cần có tiêu chí đánh giá rõ ràng, dựa trên đạo đức nghề nghiệp, kết quả công việc và hành vi thực tế.
3.4. Tiêu chí mềm hơn về năng lực và kinh nghiệm
Điều 32 dự thảo Luật chủ yếu dựa vào văn bằng mà chưa xét đến năng lực thực tiễn, kinh nghiệm. Cần xây dựng tiêu chí rõ ràng, linh hoạt theo từng ngành, tham khảo ý kiến tổ chức nghề nghiệp và quy định cách áp dụng trình độ chuẩn trong các hệ thống khác nhau để đảm bảo thống nhất, khả thi. Cần có cơ chế tài chính, thời gian, chính sách hỗ trợ GV nâng chuẩn mà không gián đoạn công việc, đặc biệt với GV lâu năm, ở vùng khó khăn. Nên công nhận các hình thức đào tạo phi chính quy (chứng chỉ ngắn hạn, kinh nghiệm giảng dạy) để tạo động lực. Ngoài ra, cần mở rộng hỗ trợ GV nâng cao trình độ, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa. Hiện quy định chủ yếu tập trung vào văn bằng mà thiếu cơ chế hỗ trợ thực tế. Đề xuất cung cấp đào tạo từ xa, khóa học ngắn hạn, miễn giảm học phí, trợ cấp tài chính để giúp giáo viên tiếp cận chương trình nâng cao trình độ.
3.5. Cơ chế hỗ trợ pháp lý và bảo vệ quyền lợi nhà giáo
Dự thảo nêu quyền bảo vệ nhân phẩm, danh dự nhà giáo (Điều 8, 10) nhưng thiếu biện pháp thực tế. Điều 10 quy định trách nhiệm bảo vệ nhà giáo nhưng không nêu rõ cơ chế thực hiện, trách nhiệm của nhà trường, cơ quan quản lý giáo dục hay biện pháp xử lý đối với hành vi xâm phạm.
Cần làm rõ cách báo cáo, xử lý các hành vi xúc phạm danh dự nhà giáo, đặc biệt trên mạng xã hội. Ai giám sát thực thi? Có hỗ trợ tâm lý cho nhà giáo bị xâm phạm không?
Chúng tôi đề xuất luật xác định rõ hành vi xâm phạm (lời nói, bạo lực, phỉ báng), trách nhiệm cụ thể của các bên liên quan (nhà trường, cơ quan giáo dục, xã hội, phụ huynh). Đồng thời, cần thành lập cơ quan chuyên trách xử lý khiếu nại, quy định thời gian xử lý, triển khai kênh tiếp nhận phản ánh như đường dây nóng, ứng dụng trực tuyến. Mức phạt nghiêm khắc nên được áp dụng với hành vi xúc phạm nhà giáo.
3.6. Linh hoạt với các quy định đặc thù cho từng khu vực
Điều 6 cần quy định chi tiết hơn về hỗ trợ nhà giáo vùng sâu, vùng xa. Đề xuất bổ sung ba điểm chính: 1) Tăng phụ cấp vùng đặc thù, hỗ trợ chi phí sinh hoạt, phương tiện di chuyển, nhà công vụ hoặc kinh phí thuê nhà. 2) Linh hoạt tiêu chuẩn tuyển dụng, chú trọng năng lực thực tiễn hơn bằng cấp, kết hợp đào tạo tại chỗ và bổ túc sau tuyển dụng. 3) Ưu tiên tuyển dụng GV địa phương, có chính sách thưởng định kỳ, ưu đãi lương, thăng tiến để giữ chân nhà giáo lâu dài.
4. Kết luận
Dự thảo Luật Nhà giáo là bước tiến quan trọng nhằm nâng cao vị thế và bảo vệ quyền lợi nhà giáo. Tuy nhiên, để thực sự hiệu quả, cần tiếp tục hoàn thiện, làm rõ tính đặc thù, minh bạch cơ chế giám sát và hỗ trợ giáo viên vùng khó khăn. Các đề xuất trong bài viết nhấn mạnh việc xây dựng chính sách linh hoạt, phù hợp với thực tiễn. Một hệ thống pháp lý vững chắc sẽ đảm bảo quyền lợi nhà giáo và thúc đẩy phát triển giáo dục bền vững. Đây là nền tảng quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nhân tài.
Tài liệu tham khảo
[1] Đặng Thị Thu Huyền (2010), Khuyến nghị của UNESCO về vị thế của nhà giáo, Tạp chí Giáo dục, Số 250, tr.11-13.
[2] Nguyễn Văn Vân (2018), Địa vị pháp lý của nhà giáo trong pháp luật Việt Nam hiện hành và định hướng hoàn thiện, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 2, tr.42-50.
[3] Nguyễn Việt Phương (2022), Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới việc tham gia hoạt động phát triển nghề nghiệp của giáo viên, Tạp chí Khoa học giáo dục Việt Nam, Số 8, tr.8-14
[4] Lê Thị Thúy Hương (2018), Chính sách tiền lương của nhà giáo trong dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 2, tr.34-41.
[5] Nguyễn Hoa Mai, Nguyễn Thị Thu Hoài (2021), Từ quan niệm của Hồ Chí Minh về nhà giáo, nghĩ về vị thế nhà giáo trong nền giáo dục việt nam hiện nay, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm Hà Nội, Số 4D, tr.102-109.
[6] Hồ Xuân Thắng, Trần Thị Thu Hà, Lê Doãn Lâm (2024), Một số góp ý vào dự thảo Luật Nhà giáo, Tạp chí Quản lý nhà nước, nguồn: https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/10/22/mot-so-gop-y-vao-du-thao-luat-nha-giao/ đăng ngày 22/10/2024, truy cập ngày 2/1/2025.
`[7] Đinh Thị Tuyết (2023), Chuẩn mực đạo đức của nhà giáo - Một số vấn đề lí luận, Tạp chí giáo dục Việt Nam, Số 12, tr.7-12.
[1] Ngày 5 tháng 10 năm 1966 tại Pháp, Hội nghị đặc biệt liên Chính phủ của UNESCO thông qua Khuyến nghị của UNESCO về vị thế của nhà giáo. Đây được coi là văn kiện quan trọng nhất, trực tiếp nhất thiết lập các chuẩn mực quốc tế về vị thế của nhà giáo. Tuy nhiên văn bản này không quy định cụ thể về yêu cầu phát triển giáo dục, nâng cao vị thế nhà giáo trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam.
[2] Điều 1 về phạm vi điều chỉnh của luật nêu rõ: “Luật này quy định về hoạt động nghề nghiệp, quyền và nghĩa vụ của nhà giáo; chức danh, chuẩn nghề nghiệp nhà giáo; tuyển dụng, sử dụng nhà giáo; chính sách tiền lương, đãi ngộ đối với nhà giáo; đào tạo, bồi dưỡng và hợp tác quốc tế đối với nhà giáo; tôn vinh, khen thưởng và xử lý vi phạm đối với nhà giáo; quản lý nhà giáo.”
[3] Ví dụ, vấn đề về quyền và nghĩa vụ của nhà giáo, chuẩn nghề nghiệp, và chính sách tiền lương đã được đề cập trong các luật này rồi, nhưng không có sự phân biệt rõ ràng giữa các đối tượng áp dụng.
[4] Khoản 2 Điều 8 quy định quyền của nhà giáo như sau: “2. Ngoài quy định tại khoản 1 Điều này, nhà giáo còn có các quyền sau: a) Được giảng dạy, giáo dục phù hợp với chuyên môn đào tạo; được nhận xét, đánh giá, khen thưởng, xử lý kỷ luật người học theo quy định;b) Được chủ động phân phối thời lượng và sắp xếp nội dung theo chương trình giáo dục; chủ động lựa chọn, sử dụng tài liệu, học liệu phục vụ hoạt động giảng dạy, giáo dục; c) Được nghiên cứu khoa học và chuyển giao sản phẩm nghiên cứu khoa học theo quy định của pháp luật về nghiên cứu khoa học và sở hữu trí tuệ; d) Được tôn trọng, bảo vệ nhân phẩm, danh dự, thân thể khi thực hiện hoạt động nghề nghiệp; được đối xử bình đẳng trong hoạt động và phát triển nghề nghiệp; đ) Được nghỉ hè và các ngày nghỉ khác theo quy định; e) Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ; g) Được tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học tại cơ sở giáo dục, cơ sở nghiên cứu khoa học hoặc tổ chức liên quan khác theo quy định của pháp luật và quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục”
[5] Điều 9. Nghĩa vụ của nhà giáo: "1. Nhà giáo trong các cơ sở giáo dục công lập thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về viên chức; nhà giáo trong các cơ sở giáo dục ngoài công lập và nhà giáo là người nước ngoài thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về lao động. 2. Ngoài quy định tại khoản 1 Điều này, nhà giáo còn có các nghĩa vụ sau: a) Giảng dạy, giáo dục đúng mục tiêu, nguyên lý giáo dục; thực hiện đầy đủ và có chất lượng chương trình giáo dục; b) Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự, đạo đức nhà giáo; mẫu mực, nêu gương trong hoạt động nghề nghiệp và xã hội; bảo đảm liêm chính học thuật; c) Tôn trọng, đối xử công bằng và tham gia bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người học; d) Phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu, phát huy phẩm chất và năng lực của người học; đ) Thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học đối với giảng viên, tham gia nghiên cứu và áp dụng khoa học giáo dục đối với giáo viên; e) Tham gia xây dựng môi trường giáo dục an toàn, dân chủ, đổi mới, sáng tạo; g) Chịu trách nhiệm pháp lý nếu có hành vi vi phạm tại khoản 1 Điều 11 Luật này và quy định của pháp luật có liên quan."
[6] Điều 32 quy định: “a) Có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm trở lên ngành giáo dục mầm non đối với giáo viên mầm non; b) Có bằng cử nhân trở lên thuộc ngành đào tạo giáo viên phù hợp với môn học, cấp học giảng dạy đối với giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông hoặc có bằng cử nhân chuyên ngành phù hợp với môn học, cấp học giảng dạy và có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm”
[7] Khoản 1 Điều 16: “1. Nội dung và phương thức tuyển dụng a) Nội dung tuyển dụng căn cứ vào chuẩn nghề nghiệp nhà giáo; b) Phương thức tuyển dụng thông qua xét tuyển hoặc thi tuyển, trong đó phải có thực hành sư phạm.”
[8] Cổng thông tin điện tử Quốc hội Việt Nam, Tổng thuật sáng 20/11: Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật Nhà giáo, Nguồn: https://quochoi.vn/tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=91089 truy cập ngày 30/12/2024.