Kỳ 3:Hình thành một đại học kiểu mới
- - Chuyển đào tạo niên chế sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ
- - Đào tạo từ xa xuất hiện lần đầu tiên trên sóng phát thanh Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
- - Chuyển giao công nghệ, phát triển nông thôn.
CHUYỂN ĐÀO TẠO NIÊN CHẾ SANG ĐÀO TẠO THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ
Mục tiêu quan trọng trong việc chuyển đổi quy trình đào tạo niên chế sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ chỉ là nhằm cải tiến chất lượng đào tạo và làm cho chương tình đào tạo thích ứng được nhu cầu thị trường về nguồn nhân lực trong quá trình đất nước hòa nhập vào nền kinh tế mở - kinh tế thị trường.
Mô hình đào tạo niên chế được xây dựng nhằm phục vụ cho nền kinh tế được hoạch định: Đào tạo ai? Làm gì? Ở đâu? Theo mô hình đào tạo này từ khâu tuyển sinh, học tập ở lớp, thực tập, thi, kiểm tra, xét lên lớp, ở lại lớp, tốt nghiệp đều theo quy định cứng, khép kín, được hành chính hóa, người học khó phát huy tính chủ động tham gia vào quá trình đào tạo. Người học không có điều kiện tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội trong quá trình học tập.
Còn mô hình đào tạo theo chế độ tín chỉ lại khác, nó cho phép người học được quyền và chịu trách nhiệm với quyết định của mình về kế hoạch học tập, được chủ động về thời gian, không gian học tập, ngay trong quá trình học tập có thể điều chỉnh ngành nghề và kế hoạch học tập sao cho phù hợp với khả năng tài chính, quỹ thời gian, năng lực và sở thích. Đây là nhu cầu bức xúc của người lao động trong nền kinh tế thị trường. Đào tạo theo hệ thống tín chỉ còn cho phép sinh viên (SV) lựa chọn các môn nhiệm ý, giúp cho họ có điều kiện hoàn thiện mình một cách toàn diện. Tất cả những điều này là sự khác biệt cơ bản giữa hai phương thức đào tạo niên chế và tín chỉ.
Đối với người dạy, mô hình đào tạo theo tín chỉ cho phép họ chia cắt chương trình đào tạo thành những đơn vị (module) chứa đựng khối lượng kiến thức có thể đo lường được để người học tuần tự tích lũy bằng những tín chỉ cần thiết để hoàn tất những điều kiện theo quy định cho văn bằng với những thời điểm khác nhau tùy theo điều kiện, sở thích cá nhân của họ, chúng có thể ghép nối tổ hợp lại với nhau để dẫn đến bằng cấp, tạo điều kiện cho người học chuyển đổi ngành nghề.
Đây chính là một trong những bản chất chủ yếu của nền giáo dục mở, phù hợp với nền kinh tế thị trường và cũng là sự theo đuổi của tôi khi thành lập Viện, xin khẳng định như vậy.
Tháng 9 năm 1990, Viện tổ chức thí điểm triển khai mô hình đào tạo theo hệ thống tín chỉ tại Khoa Anh ngữ với lý do: TS. Đinh Quang Kim là người tâm huyết với mô hình đào tạo này và là người được đào tạo tại các trường đại học Hoa Kỳ về ngôn ngữ và giáo dục học; giáo viên cơ hữu của khoa đủ số lượng và trình độ chuyên môn, am hiểu và có kinh nghiệm có thể thực hiện chế độ đào tạo theo tín chỉ, điều kiện về tài liệu học tập và phòng học đáp ứng cho yêu cầu đảm bảo chất lượng đào tạo.
Chương trình đào tạo của Khoa Anh ngữ được thiết kế theo chương trình đào tạo của các trường đại học (ĐH) nước ngoài với sự hỗ trợ tích cực của GS.TS. Dương Thiệu Tống, TS Fuller – Viện phó Viện Ngôn ngữ mùa hè Hoa Kỳ. Tổng số tín chỉ cho văn bằng cử nhân Anh ngữ của Viện là 140, bao gồm: 36 tín chỉ đại học đại cương, 2 tín chỉ giáo dục thể chất, 46 tín chỉ chuyên ngành, 25 tín chỉ chuyên ngành phụ, 19 tín chỉ các môn học quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT), 12 tín chỉ Ngoại ngữ khác… Khoa thực hiện tín chỉ với học kỳ 4 tháng, mỗi năm tuyển sinh 3 lần (đây cũng là sự khác biệt lớn so với đào tạo theo chế độ năm học – niên chế), với điều kiện ghi danh, kiểm tra xếp lớp. Tất cả các học viên ghi danh đều được tổ chức vào lớp có cùng trình độ (chỉ có những học sinh (HS) có đủ trình độ Anh ngữ 450 điểm Toefl, tốt nghiệp trung học phổ thông mới được xếp vào lớp học chương trình ĐH). Trong các lớp học của Khoa Anh ngữ, giảng viên và sinh viên (SV) bắt buộc phải nói tiếng Anh.
Trong tổng số 3.000 học viên (HV) của Khoa Anh ngữ, phần lớn là HS dự bị, chỉ có khoảng 10 lớp ĐH, mỗi lớp 30 học viên.
Năm 1992, theo giới thiệu của GS.TS. Lâm Quang Thiệp – Vụ trưởng Vụ Đại học, Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh mời TS. Jessiman – Giám đốc chương trình Hợp tác Quốc tế Canada sang thăm Viện. Với tình cảm đặc biệt, TS. Jesssiman đã vận động Chính phủ Canada hỗ trợ cho 3 chương trình nghiên cứu của Viện, trong đó có chương trình chuyển đổi đào tạo niên chế sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ cho tất cả các khoa còn lại của Viện. Với tổng kinh phí 210.000 USD (cho cả 3 chương trình), thời gian triển khai là 2 năm. Theo thỏa thuận giữa Viện và Giám đốc chương trình Hợp tác Quốc tế Canada, tháng 6 năm 1992, TS. Gibson – Phó Hiệu trưởng phụ trách đào tạo Trường Capilano Canada – Chuyên gia thiết kế chương trình đào tạo sang làm việc với Viện.
Viện tổ chức tiếp TS. Gibson, thành phần tiếp đón gồm có lãnh đạo Viện và các khoa:
- PGS.PTS. Vũ Thế Phú – Trưởng khoa Quản trị Kinh doanh.
-TS. Thái Thị Ngọc Dư – Chủ nhiệm Khoa Phụ nữ học.
- PGS.PTS. Nguyễn Quốc Lộc – Trưởng khoa Đông Nam Á học.
- PGS.PTS. Trịnh Bốn – Trưởng khoa Công thôn.
- TS. Phạm Hữu Trí – Trưởng khoa Công nghệ Thông tin.
- TS. Trần Anh Tuấn – Trưởng khoa Luật học.
- TS. Huỳnh Văn Tòng – Trưởng khoa Báo chí học.
- TS. Đinh Quang Kim – Trưởng khoa Anh ngữ.
- PGS.PTS. Nguyễn Văn Hanh – Khoa Công nghệ Sinh học.
- GVC. Bùi Văn Như – Trưởng phòng Đào tạo.
- Bà Lương Thị Kim Vinh – Trợ lý Hiệu trưởng phụ trách công tác đối ngoại.
- ThS. Nguyễn Văn Khuê – Giám đốc Trung tâm Anh ngữ không chuyên.
Thay mặt lãnh đạo Viện, tôi nhiệt liệt chào mừng TS. Gibson và khẳng định lại nhiệm vụ của Viện là nghiên cứu chuyển đổi chương trình đào tạo niên chế sang chương trình đào tạo theo chế độ tín chỉ và đề nghị TS. Gibson theo yêu cầu. Viện giao cho GVC Bùi Văn Như – Trưởng phòng Đào tạo và ThS Khuê và bà Vinh – Trợ lý Hiệu trưởng ở trong nhóm thư ký giúp việc cho TS. Gibson.
Hai hôm sau, TS. Gibson chuyển cho tôi bản kế hoạch và nội dung làm việc trong thời gian 3 tuần tại Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi thông báo kế hoạch đến các trưởng khoa, đề nghị các khoa hợp tác tốt với chuyên gia xây dựng chương trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ.
Sau ba tuần làm việc với chuyên gia, các khoa đã hoàn tất cơ bản việc thiết kế chương trình đào tạo theo hệ thống này.
Tháng 10 năm 1992, Viện cử Trưởng phòng Đào tạo Bùi Văn Như và 5 trợ lý giáo vụ các khoa sang Đại học Mở Ramkhamhaeng (Thái Lan) học tập kinh nghiệm tổ chức quản lý đào tạo theo hệ thống tín chỉ, tổ chức ghi danh, lập kế hoạch giảng dạy, tổ chức quản lý, tư vấn cho SV trong thời gian 4 tuần.
TS. Gibson, TS Peter Holden, TS. Noga Gayle và nhiều chuyên gia đã đến làm việc trong năm 1993 giúp nhà trường trong việc đề ra phương pháp tổ chức giảng dạy và viết bài giảng cho người tự học. Tháng 12 năm 1993, Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm triển khai chương trình hợp tác. TS. Gibson, TS. Jesiman và một số chuyên gia các ĐH trong ngoài nước đã đến dự, TS. Gibson báo cáo kết quả thực hiện thiết kế chương trình đào tạo theo chế độ tín chỉ tại Viện.
Từ năm 1993, Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh triển khai đào tạo theo hệ thống tín chỉ cho các khoa. Đây là bước chuẩn bị cơ bản giúp cho nhà trường tổ chức triển khai các chương trình đào tạo theo hình thức đào tạo từ xa qua phát thanh truyền hình, mạng internet, cầu truyền hình, đào tạo trực tuyến.
Những việc làm nói trên của Viện nhằm mục đích duy nhất là từng bước xây dựng Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh thành “Siêu thị tri thức” đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của nhân dân trong nền kinh tế mở - kinh tế thị trường, thực hiện mục tiêu đặt ra ngay khi có ý định xây dựng Trường Đại học Nhân dân cho đến lúc thành lập Viện Đào tạo Mở rộng và sau này là Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 12 năm 1993, với sự hỗ trợ của TS. Gibson và TS. Jesiman. Vụ Đại học, Bộ GD&ĐT đã tổ chức hội thảo về thiết kế tổ chức đào tạo theo hệ thống tín chỉ tại số 3 Công trường Quốc tế TP.Hồ Chí Minh với sự tham gia của đại diện nhiều trường ĐH phía Nam.
Đã hơn 20 năm trôi qua, đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở các trường ĐH vẫn còn nhiều bất cập vì chưa có quy chế phù hợp.
ĐÀO TẠO TỪ XA XUẤT HIỆN LẦN ĐẦU TIÊN TRÊN SÓNG ĐÀI TIẾNG NÓI NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Để các chương trình đào tạo được triển khai bằng phương thức đào tạo từ xa đảm bảo chất lượng, Viện tập trung chuẩn bị đội ngũ GV biên soạn tài liệu học tập, xây dựng mạng lưới tư vấn… Lựa chọn cấp kỹ thuật nào cho phù hợp với điều kiện kinh tế Việt Nam là rất cần thiết nếu tổ chức học tập theo cách học “Hàm thụ” qua gửi thư, tài liệu sách vở đến cho người học thì không thể mở rộng quy mô đào tạo và tác dụng của đào tạo từ xa với xã hội bị hạn chế. Nếu các chương trình đào tạo thực hiện qua phát thanh truyền hình thì Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh không có cơ sở kỹ thuật, trong lúc đang lúng túng như vậy thì vận may đến với chúng tôi…
Ngày 20 tháng 2 năm 1993, tôi về An Giang dự lễ khai giảng lớp Quản trị Kinh doanh do Viện tổ chức tại Trung tâm Giáo dục Thường xuyên thuộc trường Cao đẳng Sư phạm (nay là Đại học An Giang). Anh Sáu Hội – Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh cho biết có đoàn của Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về làm việc với Đài Phát thanh Truyền hình của tỉnh và anh Sáu mời đoàn dùng cơm với Viện.
Trong đoàn Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có anh Hai Khởi – Giám đốc, anh Hồng Thắng – Phó Giám đốc, anh Sáu Kính – Trưởng ban Khoa giáo. Dường như là một may mắn vì chính chúng tôi đang chuẩn bị một công văn gửi Đài Phát thanh Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh về việc cùng hợp tác sản xuất chương trình đào tạo từ xa bậc ĐH. Trong không khí thân mật, tôi nói rõ ý định của Viện với các anh và cho biết luôn là Viện sẽ hỗ trợ kinh phí phát sóng cho Đài, anh Hai Khởi nói: “Phát chương trình đào tạo từ xa phục vụ nhân dân học tập nâng cao trình độ là đúng đường lối của Đảng quá còn gì, tiền nong mấy anh để bọn này tính”.
Đào tạo từ xa (cùng với ghi danh đầu vào và đào tạo theo tín chỉ) là một trong ba chân kiềng phát triển của ĐH mở. Nó tạo điều kiện cho người học, dù với quỹ thời gian eo hẹp, kinh tế khó khăn đều có thể theo học các chương trình đào tạo từ xa theo cách của mình. Đào tạo từ xa là phương thức căn bản của một nền ĐH hướng đến cộng đồng, góp phần tạo nên một xã hội học tập, học thường xuyên, học suốt đời, thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nền giáo dục của mọi người, vì mọi người, cho mọi người.
Ngay từ đầu năm 1991, theo đề nghị của Viện, chúng tôi đã được tổ chức Tầm nhìn Thế giới, giới thiệu sang thăm hai ĐH mở của Thái Lan là Ramkhamhaeng và Sukhothai Thammathirat (STOU). Dù đã được nghe nói về các ĐH mở của bạn, chúng tôi vẫn thật sự rất ấn tượng về các trường ĐH này, đặc biệt là STOU với 300.000 SV theo học hệ từ xa. Tuy nhiên, dù ngưỡng mộ nhưng với điều kiện kinh tế - xã hội lúc bấy giờ ở Việt Nam chưa cho phép chọn cấp kỹ thuật để triển khai chương trình đào tạo từ xa theo mô hình của STOU, Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh đã lựa chọn hình thức mở ghi danh tự do theo phương thức cổ điển mặt đối mặt (face to face). Đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết về nguồn lực để nâng cấp kỹ thuật thông qua công nghệ truyền thông.
Năm 1992, khi hợp tác với Đại học Capillano (Canada), Viện mới có điều kiện xây dựng một dự án Đào tạo từ xa với bạn. Phía Capillano cử chuyên gia sang tập huấn cho cán bộ giảng dạy biên soạn tài liệu cho người tự học, giúp đào tạo cán bộ quản lý chương trình, sau đó Viện cũng cử người sang Capillano và các ĐH mở Thái Lan (Ramkhamhaeng và STOU) để nghiên cứu, học tập phương pháp xây dựng đề cương chi tiết và viết bài giảng dạy cho chương trình đào tạo từ xa, cũng như kỹ thuật đạo diễn sản xuất băng hình, băng tiếng. Công tác chuẩn bị cho phương thức đào tạo mới mẻ này vừa xong thì đúng lúc có cuộc gặp gỡ số phận với lãnh đạo Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Trở lại ngày 20 tháng 2 năm 1993, tối hôm đó thật vui vì cuộc gặp đã mở đường cho Viện có thể thực hiện được một trong những hướng phát triển chính yếu của ĐH mở mà chúng tôi vẫn trăn trở và cũng là nhiệm vụ mà Bộ trưởng Bộ GD&ĐT lúc nào cũng quan tâm nhắc nhở. Tôi mời anh Hai Khởi và đoàn Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh một tuần sau đó sang thăm Viện và thỏa thuận ký hợp đồng liên kết triển khai chương trình đào tạo từ xa.
Chỉ sau vài ngày, ngày 25 tháng 2 tại Viện đã diễn ra lễ ký kết hợp tác chương trình đào tạo từ xa giữa Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh và Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Về phía Viện có PGS. Vũ Thế Phú – Trưởng khoa Quản trị Kinh doanh, PGS. Nguyễn Quốc Lộc – Bí thư Đảng ủy – Trưởng khoa Đông Nam Á học, TS. Trần Anh Tuấn – Trưởng khoa Luật, TS. Huỳnh Bá Tòng – Trưởng khoa Báo Chí học, PGS. Trịnh Bốn – Trưởng khoa Công thôn, TS. Thái Thị Ngọc Dư – Trưởng khoa Phụ nữ học, GVC Bùi Văn Như – Trưởng phòng Đào tạo.
Về phía Đài có anh Nguyễn Văn Khởi – Giám đốc, anh Nguyễn Hồng Thắng – Phó Giám đốc, anh Sáu Quang – Phó Giám đốc Kỹ thuật, anh Sáu Kinh – Trưởng ban Khoa giáo, anh Kha – Phó ban Khoa giáo và Nhà báo Ngọc Anh, cán bộ của Ban Khoa giáo. Hợp đồng thỏa thuận giữa hai bên quy định: Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh chịu trách nhiệm thủ tục mở lớp, tổ chức tuyển sinh, tổ chức quản lý chương trình, chất lượng đào tạo, chịu trách nhiệm chuẩn bị đội ngũ để ghi tiếng; Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chịu trách nhiệm về mặt kỹ thuật lên sóng (ghi âm và lịch phát sóng). Hai bên cử ra Ban Quản lý chương trình đào tạo từ xa do thủ trưởng mỗi đơn vị chủ trì và mỗi bên cử cán bộ làm việc trực tiếp. Về phía Viện, GVC Bùi Văn Như và Phòng Đào tạo, về phía Đài do anh Nguyễn Viễn Kinh (Sáu Kinh) và Ban Khoa giáo của Đài, chị Nguyễn Ngọc Anh trực tiếp triển khai kế hoạch thu phát.
Chương trình đào tạo từ xa của Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh được thực hiện theo mô hình “Ba liên kết” và “Hai kết hợp”. Ba liên kết là: Liên kết giữa Viện với Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và các trung tâm đào tạo tại các địa phương. Còn hai kết hợp là: Kết hợp giữa học tập qua đài phát thanh, tài liệu sách vở với giảng dạy trực tiếp mặt đối mặt (face to face), tỷ lệ 80% học gián tiếp và 20% học trực tiếp. Các môn tiếng Anh, Toán, Tin học, người học tự học tại trung tâm theo chương trình giảng dạy của trường.
Công tác tổ chức đào tạo từ xa được thực hiện theo quy trình 5 bước:
- Người học tiếp nhận thông tin, ghi danh, nộp lệ phí, nhận tài liệu sách vở, tiếp nhận lịch phát sóng.
- Tự học qua tài liệu sách vở và nghe giảng trên đài, tự nghiên cứu và giải quyết các bài tập theo giáo trình.
- Tập trung nghe giảng phụ đạo, ôn tập.
- Tổ chức thi, kiểm tra.
- Thực tập làm đồ án hoặc luận văn tốt nghiệp.
Quá trình học tập là quá trình sàng lọc liên tục, chỉ có những người kiên trì, có ý thức và phương pháp học tập mới đạt được kết quả theo quy định và mới đủ điều kiện tốt nghiệp.
Chưa đầy một tháng sau, ngày 20 tháng 3 năm 1993, lần đầu tiên trên sóng phát thanh Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chuyển đến người nghe chương trình đào tạo từ xa ngành Quản trị Kinh doanh. Thật kịp thời, chương trình không những đã đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của nhân dân mà trong bối cảnh lúc đó, việc lựa chọn ngành Quản trị Kinh doanh đưa lên sóng phát thanh với các môn học Tiếp thị, Luật Kinh doanh, Thị trường chứng khoán, Nghệ thuật đàm phán, Kế toán quốc tế,… là hoàn toàn phù hợp nên đã được đông đảo cán bộ và nhân dân quan tâm, góp phần tích cực xây dựng nguồn nhân lực cung cấp cho nền kinh tế mở - kinh tế thị trường.
Chương trình đào tạo từ xa đã được lãnh đạo các tỉnh thành phía Nam ủng hộ nhiệt tình, nhiều đồng chí lãnh đạo địa phương quan tâm theo dõi. Tháng 5 năm 1993, Viện đến làm việc tại tỉnh Kiên Giang, được các đồng chí Nguyễn Tấn Dũng – Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Bảy Lam – Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, đồng chí Bảy Tuấn – Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy, đồng chí Huỳnh Vĩnh Ái – Chánh Văn phòng Tỉnh ủy tỉnh Kiên Giang tiếp. Viện trình bày chủ trương xây dựng hệ thống tư vấn hỗ trợ đào tạo từ xa tại địa phương, được đồng chí Nguyễn Tấn Dũng nhiệt tình ủng hộ, giao cho Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh liên kết với Viện. Chỉ vài ngày sau buổi làm việc, đồng chí Nguyễn Tấn Dũng đích thân lên thăm Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh và chuyển công văn của tỉnh đề nghị Viện hỗ trợ cho Trung tâm Giáo dục Thường xuyên của tỉnh. Từ đó đến trước khi ra Hà Nội nhận công tác, thỉnh thoảng đồng chí có ghé thăm Viện hoặc báo để Viện sang cùng làm việc tại số 17 Lê Quý Đôn. Các đồng chí Chín Cao (Phú Yên), Nguyễn Thanh Bình (Sóc Trăng), Bảy Trị (Cà Mau), đồng chí Nguyễn Văn Xuân, Văn Công An (Ninh Thuận), đồng chí Sáu Hội (An Giang), đồng chí Ba Rộp (Tây Ninh) đều cũng thường xuyên đến thăm và ủng hộ Viện.
Anh em trong Viện rất phấn khởi vì với phương thức từ xa được triển khai, Viện đã tạo được thế chân kiềng trong đào tạo mở. Vừa hay là lúc đó Bộ ra quyết định thành lập chương trình quốc gia về giáo dục và đào tạo từ xa do TS. Vũ Cao Phan – Trợ lý Bộ trưởng, một người rất tâm huyết về giáo dục từ xa, trực tiếp làm chủ nhiệm chương trình. Thành lập giữa tài khóa, chưa có kinh phí dự trù, anh Phan đã tích cực chạy tìm các nguồn khác nhau – dù ít ỏi cho chương trình này. Chúng tôi bắt tay nhau, cùng với Viện Đào tạo Mở rộng Hà Nội (sau này là Đại học Mở Hà Nội) hứa sẽ tích cực phát triển đào tạo từ xa, tạo cơ hội học tập cho số đông quần chúng.
Qua 3 năm triển khai chương trình của Viện, đến năm 1996 số HS hệ đào tạo từ xa từ vài trăm tăng lên đến hàng chục ngàn và rất vui là năm 1996, 250 SV khóa I ngành Quản trị Kinh doanh hệ đào tạo từ xa tốt nghiệp ra trường, chiếm tỷ lệ chưa đến 10% và hầu hết các tân cử nhân khóa này đều được các cơ sở tiếp nhận, được xã hội chấp nhận.
Anh Bùi Văn Như và chị Ngọc Anh ở Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là những người trực tiếp và rất nhiệt tình, góp nhiều sức lực cho sự thành công của chương trình. PGS. Vũ Thế Phú – Trưởng khoa Quản trị Kinh doanh phụ trách nội dung đào tạo và anh Sáu Quang – Phó Giám đốc phụ trách Kỹ thuật Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là những người đã cùng tập thể Ban Chỉ đạo chương trình góp phần tích cực cho chương trình đào tạo từ xa bậc ĐH qua phát thanh đầu tiên ở Việt Nam thực hiện thành công.
Để chuẩn bị mở rộng phạm vi và nâng cấp kỹ thuật cho chương trình đào tạo từ xa ra toàn quốc, ngày 2 tháng 11 năm 1994, Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh và Ban Khoa giáo Đài truyền hình Việt Nam đã ký thỏa thuận hợp tác sản xuất và phát sóng chương trình đào tạo từ xa với sự chấp thuận của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Trần Hồng Quân, nhưng rất đáng tiếc vì sự cố kỹ thuật cuối năm 1995 nên thỏa thuận này không được thực hiện.
CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Chuyển giao công nghệ, đào tạo nghề cho đồng bào vùng sâu vùng xa, đồng bào dân tộc là một trong nhiều nhiệm vụ đào tạo của các ĐH mở. Nó có thể được thực hiện bằng cách đào tạo tại chỗ hoặc thông qua phương thức đào tạo từ xa qua phát thanh truyền hình, với các chương trình dạy nghề ngắn hạn thích hợp, góp phần tích cực xóa đói giảm nghèo, giúp đồng bào dân tộc xây dựng nông thôn mới, phù hợp với phát triển xã hội. Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh sớm nhận rõ ý nghĩa của công việc này, vì vậy trong những năm đầu còn khó khăn, không có ngân sách nhà nước, Viện đã triển khai có hiệu quả chương trình chuyển giao công nghệ, đào tạo cho đồng bào dân tộc và đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt của đồng bào Khmer, đồng bào Chăm.
Ngày 12 tháng 12 năm 1992, đồng chí Nguyễn Văn Linh – Nguyên Tổng Bí thư, Cố vấn BCH Trung ương Đảng CSVN phát biểu tại Hội thảo Kinh tế văn hóa Chăm do Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức
Ngày 23 tháng 5 năm 1990, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT có thư gửi cho đồng chí Huỳnh Cương – Phó Chủ tịch Quốc hội và lãnh đạo một số địa phương, đề nghị ủng hộ Bộ tổ chức Hội thảo vấn đề: “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kinh tế - kỹ thuật cho đồng bào Khmer Nam Bộ thông qua trung tâm đào tạo các tỉnh”. Đồng chí Trần Đình Tân – Vụ trưởng Vụ Tại chức đề nghị tôi liên hệ các tỉnh để chuẩn bị và trực tiếp làm công tác tổ chức cho buổi hội thảo quan trọng này. Vừa chân ướt chân ráo từ Cần Thơ lên, tôi hăng hái bắt tay vào việc, xem đây là nhiệm vụ đầu tiên cho một thời kỳ mới.
Từ ngày 29 đến 30 tháng 5 năm 1990, Hội thảo: “Đào tạo bồi dưỡng cán bộ kinh tế - kỹ thuật cho đồng bào Khmer Nam Bộ thông qua trung tâm đào tạo các tỉnh” được triển khai. Tham dự Hội thảo có đồng chí Nguyễn Hà Phan – Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Hậu Giang, đồng chí Huỳnh Cương – Phó Chủ tịch Quốc hội – Chủ tịch MTTQ tỉnh, các đồng chí trong Sở GD&ĐT, Giám đốc các trung tâm đào tạo các tỉnh, PTS. Nguyễn Tấn Tuấn – Sở Khoa học Kỹ thuật Hậu Giang, đồng chí Xuân Tứ - Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang, đồng chí Đặng Hoàng Dũng – Giám đốc Sở Giáo dục An Giang, đồng chí Nguyễn Văn Tân – Phó Ban Dân tộc tỉnh Kiên Giang, đồng chí Vũ Tấn Hùng – Giám đốc Sở Giáo dục Đồng Tháp, đồng chí Nguyễn Phương Nam – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học tại chức tỉnh Cửu Long.
Về phía Bộ GD&ĐT có các đồng chí: TS. Trần Thượng Tuấn – Phó Hiệu trưởng, đồng chí Táo Hón – Trưởng khoa Sư phạm Đại học Cần Thơ, PTS. Trần Thanh Pôn – Cán bộ nghiên cứu Viện Giáo dục phía Nam, đồng chí Trần Quý – Hiệu trưởng Trường Đại học Dự bị Thành phố Hồ Chí Minh.
Hội thảo thống nhất: vấn đề chuyển giao công nghệ và đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc là vấn đề rất bức xúc, Trường Cán bộ Quản lý sau đây sẽ là Trường Đại học Nhân dân cần sớm tổ chức liên kết với các trường, các cơ sở đào tạo, Ban Dân tộc các tỉnh để có kế hoạch triển khai ngay các lớp đào tạo bồi dưỡng nghề tại Cần Thơ cho đồng bào Khmer.
Sau hội thảo, Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh đã làm việc khẩn trương, kịp thời xây dựng chương trình đào tạo chuyển giao công nghệ và đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc. Tháng 1 năm 1991, Viện làm tờ trình xin phép Bộ cho Viện tổ chức triển khai, gần 5 tháng không thấy có ý kiến trả lời, cuối tháng 5 năm 1991, tôi đích thân ra Hà Nội làm việc với Vụ Tại chức mới biết lý do là chưa có kinh phí mở lớp. Tôi đề nghị anh Cù Quang Mạc – Quyền Vụ trưởng trình Bộ cho phép Viện mở lớp, kinh phí Viện sẽ tự lo. Sau đó, Thứ trưởng Lương Ngọc Toản đã ký thông báo cho phép Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh mở lớp đào tạo bồi dưỡng cho đồng bào dân tộc.
Ngày 5 tháng 6 năm 1990, lớp chuyển giao công nghệ xóa đói giảm nghèo cho đồng bảo dân tộc Khmer
Ngày 5 tháng 6 năm 1991, Viện tổ chức lớp bồi dưỡng đầu tiên cho cán bộ người dân tộc Khmer tại Cần Thơ, Hậu Giang, thời gian 3 tuần. Chương trình huấn luyện bao gồm các thuyết trình:
-Hệ thống canh tác vườn, ao, chuồng, biogas, VAC+B do GS.TS. Võ Tòng Xuân trình bày.
- Kỹ thuật chế biến và bảo quản nông sản do GS.TS. Lê Văn Tố - Viện trưởng Viện Sau thu hoạch TP. Hồ Chí Minh phụ trách.
- Kỹ thuật sản xuất nấm rơm, nấm mèo, sản xuất men do PTS. Văn Mỹ Dung – Phó Giám đốc Trung tâm Nấm thuộc Sở Nông nghiệp TP. Hồ Chí Minh phụ trách.
- Các sản phẩm chế biến từ đậu nành do PTS. Lê Văn Thơm trường Đại học Cần Thơ phụ trách.
- Kỹ thuật nuôi trồng thủy sản do PTS. Phạm Thanh Xuân – Viện Thủy sản TP. Hồ Chí Minh phụ trách.
- Vấn đề về văn hóa giáo dục do PGS.PTS. Nguyễn Quốc Lộc phụ trách.
-Triển khai cơ giới hóa phục vụ sản xuất ở nông thông do PTS. Trần Quân – Viện trưởng Viện Nông cơ TP. Hồ Chí Minh phụ trách.
-Vấn đề xây dựng và phát triển nông thôn do TS. Cao Văn Phường phụ trách.
Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh cung cấp kinh phí cho lớp học bằng nguồn kinh phí tự có, bao gồm chi phí bồi dưỡng cho GV, chi phí ăn ở cho học viên, chi phí in ấn tài liệu học tập, chi phí dụng cụ - nguyên vật liệu – vật tư thực hành…Lớp học đã được đông đảo quần chúng và lãnh đạo các tỉnh ủng hộ. Những nhà khoa học tham gia lớp học đầu tiên gồm: PTS. Trần Quân – Viện trưởng Viện Cơ giới hóa Nông nghiệp, PGS. Luật – Viện trưởng Viện lúa, GS. Võ Tòng Xuân, TS. Lê Văn Tố - Viện Sau thu hoạch, PTS. Phan Văn Thơm – Đại học Cần Thơ, PGS. Nguyễn Quốc Lộc, TS. Cao Văn Phường, Ông Bùi Xuân Đỗ.
Từ Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh năm 1990 đến Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh tháng 7 năm 1993, nhà trường đã chuyển giao công nghệ, đào tạo nghề cho hơn 900 HV là đồng bào Khmer, sư sãi ở các tỉnh Cần Thơ, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang, Trà Vinh, An Giang, đồng bào dân tộc Chăm ở Ninh Thuận.
Các lớp chuyển giao kỹ thuật, đào tạo nghề do Viện tổ chức ngắn gọn, thiết thực, cầm tay chỉ việc cho người học để tự họ có thể làm việc tại chỗ. Tôi nhớ rất rõ tại chùa Xiêm Cán (Bạc Liêu), theo yêu cầu của Đại đức Dân Quân từ ngày 19 đến 20 tháng 12 năm 1991, Viện tổ chức lớp tập huấn về các chế phẩm từ đậu nành như sữa đậu nành, đậu hũ, chao, tương cho hơn 60 sư sãi và bà con người Khmer. Chúng tôi mang theo đậu tương, đường đủ cho bà con tự thực hành môn học, bà con chia ra 10 nhóm, mỗi nhóm 6 người, đại diện cho 6 gia đình được phát 5 kg đậu nành, 2 kg đường nhưng phải tự lo xoong nồi thực tập. Lớp học được tổ chức ngay trong chùa, công việc thực hành rất náo nhiệt, thu hút cả số đông đồng bào địa phương đến xem, ngẫu nhiên tăng thêm số lượng người học.
Để tranh thủ thời gian học tập, Viện lo cơm trưa choHV, đứng lớp là PTS. Phan Văn Thơm – nguyên Chủ nhiệm Khoa Chế biến trường Đại học Cần Thơ được Viện mời làm cộng tác viên thường xuyên; thầy Bùi Xuân Đỗ - Giám đốc Trung tâm chuyển giao công nghệ phát triển nông thôn mới được cử phụ trách lớp. Ngày 20/12, ngày cuối của lớp học, tôi từ TP. Hồ Chí Minh xuống thăm lớp, thấy bất ngờ là HV thực hành môn chế biến sữa đậu nành, đậu hũ có kết quả, không khí vui như ngày hội. Sau lớp học, Viện tổ chức để tất cả HV tự đánh giá kết quả của mình, Viện trích phần kinh phí giúp cho hộ nghèo vay không trả lãi để trồng đậu nành, khi nào có hiệu quả trả lại để Viện tiếp tục đầu tư cho các hộ khác.
Một lớp học tương tự cũng được tổ chức cho 154 HV tại tỉnh Kiên Giang trong 3 ngày (từ 17 đến 20 tháng 8 năm 1992) gồm cả sư sãi và bà con Khmer. Tại buổi lễ kết thúc lớp học, Hòa thượng Danh Nhường - Ủy viên Hội đồng chứng minh và trị sự Trung ương Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam, Trưởng ban Trị sự Hội Phật giáo thống nhất tỉnh Kiên Giang đánh giá cao kết quả lớp học, bản thân hòa thượng cũng là HV tích cực của lớp.
Trong lễ tổng kết 5 năm hoạt động của Viện, ông Công Kim Thắng – Ban Dân tộc Trung ương, Đại đức Danh Dĩnh, đồng chí Trịnh Thời Cang – nguyên Phó ban Dân tộc Trung ương đánh giá rất cao việc làm của Viện. Ông Công Kim Thắng viết những lời rất cảm động: “Cám ơn Đảng và Hồ Chủ tịch đã đào tạo ra những cán bộ hết lòng vì dân vì nước như các đồng chí và các bạn”. (Phát biểu của các HV các lớp chuyển giao kỹ thuật được giới thiệu ở phần phụ lục Hồi ký Đã từng có một đại học mở như vậy).