Đăng nhập

Top Panel
Trang nhấtGiáo dụcNĂM QUAN ĐIỂM VÀ BẢY KIẾN NGHỊ CỦA HIỆP HỘI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG NGOÀI CÔNG LẬP VIỆT NAM

NĂM QUAN ĐIỂM VÀ BẢY KIẾN NGHỊ CỦA HIỆP HỘI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG NGOÀI CÔNG LẬP VIỆT NAM

Thứ hai, 17 Tháng 3 2014 09:46

GS. Trần Hồng Quân, Chủ tịch Hiệp hội

Các trường ĐH, CĐ NCL Việt Nam

Chúng tôi hoan nghênh Bộ GD&ĐT đã cố gắng để tổ chức hội nghị này. Theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, tại Công văn số 4436/VPCP-KGVX ngày 3/6/2013 của Văn phòng Chính phủ thì lẽ ra chúng ta phải tổ chức trong Quý III năm 2013. Thôi thì “muộn còn hơn không”, tổ chức được là rất tốt. Hiệp hội các trường ĐH, CĐ NCL thực hiện nghiêm túc ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng, mặt khác do quá lo lắng cho sự nghiệp chung nên đã chủ động tổ chức hội nghị đánh giá 20 năm phát triển mô hình ĐH, CĐ NCL vào cuối tháng 9/ 2013. Các tài liệu và báo cáo kết quả của hội nghị được chuẩn bị rất công phu, đã gửi tới lãnh đạo các cấp và đang có trong tay các quý vị đại biểu dự hội nghị hôm nay.

 

Nhìn nhận và suy ngẫm một cách tổng quát về bức tranh 20 năm phát triển mô hình trường ĐH, CĐ NCL, thấy rằng: Rất đáng tự hào; Rất nhiều khó khăn; Nhưng tin tưởng vào tương lai tốt đẹp.

     - Rất đáng tự hào vì: Trong tiến trình chung của công cuộc đổi mới theo tinh thần Đại hội VI của Đảng, ngành Giáo dục đại học đã góp vào kho tàng lý luận và thực tiễn đổi mới chung của đất nước một hệ thống tư duy mới, cách làm mới, thành quả mới về giáo dục đào tạo, cứu nguy cho nền giáo dục đại học đứng trước nguy cơ tan rã từng mảng vào những năm 1980. Trong đó có sự ra đời và lớn mạnh thành một hệ thống các trường ĐH, CĐ NCL Việt Nam; hệ thống này từ năm 2005 đã có một tổ chức Hiệp hội Các trường ĐH, CĐ NCL Việt Nam đại diện và bảo vệ quyền lợi cho tất cả các trường, cùng chia sẻ vui buồn thành bại với các trường. Hiệp hội đã và đang làm khá nhiều việc để thực hiện thắng lợi chủ trương đường lối xã hội hóa đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, để giúp các trường tự tin đứng vững trong những tình huống hết sức gian lao, những khó khăn không nói nên lời, để từng bước ổn định và phát triển.

     - Rất nhiều khó khăn vì: Trong tư duy quản lý giáo dục đào tạo các cấp vẫn chưa thông thoáng, có khi còn lấn cấn chưa mạnh dạn tạo điều kiện để phát triển mạnh hơn nữa giáo dục NCL. Trong thực tế vận hành quản lý giáo dục còn muốn níu giữ cơ chế xin cho, cầm tay chỉ việc, chưa trao quyền tự chủ đúng mức cho các trường đại học. Nhiều chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước chưa vào được thực tiễn bởi hàng rào các văn bản hướng dẫn còn chậm trễ, lạc hậu, bảo thủ, lệch lạc mà chưa có ai chịu trách nhiệm. Hệ thống bộ máy công quyền của nhà nước còn có nơi công khai đối xử phân biệt đối với SV tốt nghiệp trường NCL. Sự hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước cho SV chưa đảm bảo công bằng, SV trường công thì có, SV trường NCL thì chưa có hỗ trợ gì. Nhà nước đánh thuế trường NCL không vì lợi nhuận là hết sức vô lý, nhưng chưa được tháo gỡ ...

 - Tin tưởng vào tương lai tốt đẹp vì: Trong tư tưởng đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, nền giáo dục phải được phát triển mạnh mẽ trên cơ sở phát triển hài hòa giáo dục công lập và giáo dục NCL. Luật Giáo dục sửa đổi, Luật Giáo dục đại học đã ban hành với nhiều điều tiến bộ, nhất định phải được đưa vào thực tế tạo hành lang pháp lý lành mạnh thông thoáng cho giáo dục phát triển. Nước ta vào tổ chức WTO từ năm 2007 đến nay đã gần 7 năm, tạo môi trường cho giáo dục Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng hơn. Kinh nghiệm phát triển giáo dục đại học NCL của các nước phát triển bên cạnh chúng ta như Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Xinhgapor...(với khoảng 50 – 80% SV học tập ở trường NCL) đang thay đổi tư duy và hành động thực tế của chúng ta trong công cuộc đổi mới căn bản, sâu sắc và toàn diện nền giáo dục nước nhà theo tinh thần chỉ đạo của Đại hội XI của Đảng. Hiệp hội Các trường ĐH, CĐ NCL Việt Nam và những nhà sáng lập, nhà đầu tư giáo dục từ các trường NCL đang rất tâm huyết với sự nghiệp giáo dục đào tạo, đang ngày đêm suy nghĩ vượt mọi khó khăn, tiếp tục đổi mới tư duy, tìm tòi sáng tạo, đoàn kết cộng đồng, chia sẻ thành công, chuyển giao kinh nghiệm, hợp tác quốc tế, đấu tranh không ngừng nghỉ để những chủ trương đường lối đúng phải được thực thi, để những khó khăn cản trở phải lùi bước, để những tiến bộ về khoa học giáo dục về công nghệ đào tạo sớm được áp dụng vào nhà trường. Trên cơ sở đó chúng ta có quyền tin tưởng vào tương lai tốt đẹp.

Tiếp sau đây, tôi xin nêu 5 quan điểm về phát triển giáo dục đại học NCL trong bài toán phát triển nguồn lực chung của đất nước, đồng thời có 7 kiến nghị.

 

I . NĂM QUAN ĐIỂM

1/ Nguồn lực phát triển giáo dục đào tạo từ trong nhân dân là vô cùng lớn, phát triển hài hòa giáo dục công lập và NCL là cách làm thông minh hợp quy luật để huy động nguồn lực cho giáo dục. Với tư duy đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được khuyến khích phát triển. Trong lĩnh vực giáo dục đại học, trên cơ sở 4 tiền đề để thích nghi với cơ chế kinh tế xã hội lúc bấy giờ, một trong những ý tưởng đổi mới giáo dục mang tính đột phá là chấp nhận sự có mặt của các cơ sở GDĐH NCL, nhằm huy động thêm các nguồn lực ngoài ngân sách và biên chế nhà nước, đồng thời xây dựng các mô hình đại học có tính tự chủ cao, quản lý năng động hiệu quả, làm đối chứng với mô hình bao cấp thụ động. Theo tinh thần đó, cuối năm 1988 Trung tâm đại học dân lập Thăng long được thành lập.

 

Sau 5 năm thí điểm hoạt động của Trung tâm đại học dân lập Thăng Long, từ năm 1994 đến nay cả nước đã có 54 trường đại học và 30 trường CĐ NCL gồm các trường dân lập, tư thục, trường do nước ngoài đầu tư.  Các trường này gánh vác 14 – 15 % số SV đào tạo cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước, mà nhà nước không cần bỏ ra chi phí nào, thậm chí còn thu thuế các trường NCL như doanh nghiệp. 

 

Kinh nghiệm thành công của nhiều nước phát triển vượt trội vào cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, ở đó GDĐH NCL được phát triển như một mũi đột phá trong GDĐH. Tuy nhiên ở nước ta thì sau 20 năm phát triển giáo dục đại học NCL, chưa có kết luận chính thức của cơ quan quản lý giáo dục đào tạo về vấn đề này. Thật đáng tiếc! Cho nên giáo dục ĐH NCL gặp khá nhiều khó khăn, có lúc có nơi tưởng chừng đứng bên bờ phá sản. Hy vọng tại hội nghị này sẽ có kết luận chính thức về vấn đề trên. Gần đây các nhà đầu tư giáo dục đang nản lòng, nhưng nếu được quan tâm tạo điều kiện về cơ chế chính sách rõ ràng và động viên kịp thời thì họ sẵn sàng đầu tư mạnh mẽ hơn cho giáo dục đào tạo.

 

Thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có nêu “Chúng ta đang sống trong thời đại toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng. Việc tham gia các Hiệp định thương mại tự do với yêu cầu cao hơn, toàn diện hơn tạo ra nhiều cơ hội cho hợp tác cùng phát triển nhưng sự tùy thuộc lẫn nhau cũng tăng lên và cạnh tranh ngày càng gay gắt. Quốc gia nào có năng lực cạnh tranh cao sẽ có nhiều cơ hội để vượt lên, phát triển nhanh và bền vững”. Như vậy, để có được năng lực cạnh tranh cao, ngoài các yếu tố về tài nguyên thiên nhiên thì nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò hết sức quan trọng. Nguồn nhân lực đó phải là sản phẩm của một nền giáo dục phát triển, một nền đại học khỏe mạnh, trong đó giáo dục đào tạo công lập và NCL phát triển hài hòa. 

 

Cần tổng kết các chủ trương chính sách xã hội hóa giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước, trong đó có Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao; Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường. Đây là những văn bản đặc biệt quan trọng, có tác dụng định hướng phát triển cho GDĐH NCL ở nước ta. Các văn bản này cần phải đi vào cuộc sống. Nguồn lực trong nhân dân, sức sáng tạo của dân còn rất nhiều, cần có cơ chế chính sách huy động và phát huy mạnh mẽ nguồn lực của dân để đầu tư phát triển giáo dục đào tạo.

 

Đột phá trong quản lý nông nghiệp bắt đầu từ Khoán 10 thực chất là trao quyền tự chủ cho nông dân, huy động sức lao động và sự sáng tạo của nông dân, đã đưa Việt Nam từ thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản hàng đầu thế giới. Chúng ta đang rất cần một sự đột phá trong quản lý giáo dục đào tạo, trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đào tạo. Các nhà giáo dục, nhà khoa học, nhà trí thức kết hợp với các nhà đầu tư sẽ biết phải làm gì để phát triển giáo dục đào tạo. Bộ GD&ĐT dù có phình to gấp 5 lần hiện nay thì cũng không đủ để “cầm tay chỉ việc” cho hơn 500 trường ĐH, CĐ và hàng chục nghìn trường phổ thông. Bộ GD&ĐT cần tập trung làm tốt công việc của mình. Cũng trong thông điệp của Thủ tướng Chính phủ, chúng tôi rất tâm đắc với quan điểm: “Xã hội hóa không chỉ để huy động các nguồn lực mà còn tạo điều kiện cho xã hội thực hiện những chức năng, những công việc mà xã hội có thể làm tốt hơn. Và chỉ như vậy mới có thể xây dựng được một bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả”. “Người dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép”.

 

2/ Đảm bảo quyền bình đẳng, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh là động lực phát triển GD ĐT. Một bất cập lớn là sự phân biệt đối xử giữa SV công lập và NCL về chính sách đãi ngộ của nhà nước. SV công lập thì được nhà nước xét cấp học bổng, được hỗ trợ 60 – 70% chi phí đào tạo, chỉ đóng một mức học phí rất thấp so với chi phí đó. Còn các SV NCL, cũng  là một công đân có đầy đủ nghĩa vụ và quyền lợi như các SV công lập nhưng không được nhà nước đãi ngộ, mặt khác họ còn phải gánh phần thuế do nhà trường phải nộp thuế cho nhà nước. Theo điều tra, tỷ lệ SV NCL đến từ nông thôn (với nguồn thu nhập hạn hẹp) lại nhiều hơn ở các trường công lập. Hóa ra lâu nay nhà nước hỗ trợ cho SV con nhà khá giả ở trường công mà không mấy khi hỗ trợ cho SV nghèo khó ở trường NCL. Như vậy mục tiêu rất tốt của nhà nước là hỗ trợ SV nghèo đã vô tình không được thực hiện. 

 

Sự bất công phi lý này đã tồn tại nhiều năm mà không ai đứng ra xem xét khắc phục. Nhà nước phải xây dựng cơ chế chính sách đảm bảo quyền bình đẳng về cơ hội học tập cho người học, về điều kiện và môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các cơ sở giáo dục đào tạo. Nếu tháo gỡ ách tắc này, có chính sách rót kinh phí hỗ trợ của nhà nước theo đầu SV, thì sẽ đem lại quyền bình đẳng về cơ hội được hưởng ưu tiên hỗ trợ của nhà nước đối với người học. SV sẽ chọn cho mình cơ sở đào tạo phù hợp để học tập, không phải cố chạy vào trường công chỉ với mục đích được hưởng phần kinh phí hỗ trợ của nhà nước. Các trường sẽ năng động hơn, phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo, uy tín khoa học để thu hút SV vào học. Chính điều đó tạo động lực để ganh đua, cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà trường.

 

3/ Sự minh bạch khái niệm và cơ chế lợi nhuận trong GDĐH NCL là đòn bẩy của phát triển. Nhiều học giả trên thế giới cho rằng, ngày nay sự phân biệt giữa “vì lợi nhuận” và “không vì lợi nhuận” còn quan trọng hơn là phân biệt giữa trường công và trường tư. Chính vì vậy, tại Nghị quyết 05 Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu làm rõ những vấn đề về sở hữu, tính chất lợi nhuận và phi lợi nhuận, trách nhiệm của các cơ sở và hình thức xã hội hoá trong từng lĩnh vực, kiến nghị các cơ chế, chính sách phù hợp trong năm 2005. Tháng 1/2006 Thủ tướng Chính phủ lại có Chỉ thị 193 yêu cầu trình cơ chế phi lợi nhuận vào cuối năm đó và trong 2 năm (2008 và 2009) một lần nữa cơ chế này lại được trao đổi khi dự thảo Nghị định hợp tác đầu tư về giáo dục với nước ngoài. Kiến nghị của Đoàn giám sát Quốc hội tháng 5/2010 cũng đề xuất Chính phủ sớm ban hành các tiêu chí xác định trường ĐH, CĐ NCL hoạt động theo nguyên tắc “không vì lợi nhuận”, và “vì lợi nhuận hợp lý”. Tất cả những định hướng đó đòi hỏi cần có một hệ thống các văn bản ở mọi cấp và đồng bộ để triển khai. Tuy nhiên cho đến nay vấn đề này vẫn còn treo để đó. Tình trạng đó dẫn đến hệ quả là mặc dù các trường ĐH NCL ở Việt Nam được hình thành từ nhiều phương thức khác nhau nhưng các cơ quan quản lý nhà nước lại đưa ra một chính sách chung cho tất cả các trường NCL, đều coi là “vì lợi nhuận” cả. (Bộ Tài chính quy định tất cả các trường ĐH NCL phải chịu mức thuế thu nhập doanh nghiệp là 10%; trước đó nhiều trường đã phải nộp thuế thu nhập ở mức 25%). 

 

Vấn đề lớn nhất còn tồn tại ở cả Luật Giáo dục, Luật GD ĐH và nhiều văn bản quy phạm pháp luật là chưa làm rõ cơ chế sở hữu cũng như tính chất “không vì lợi nhuận” của các loại hình trường NCL. Từ đó dẫn đến hậu quả là cho tới nay vẫn chưa có được các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cách thức công nhận các cơ sở GDĐH NCL không vì lợi nhuận và những chính sách khuyến khích đặc biệt đối với loại trường này.

 

4/ Đất để xây dựng nhà trường là điều kiện không thể thiếu, đây là vấn đề của nhà nước và chỉ có nhà nước mới giải quyết được trọn vẹn. Cho tới nay đã qua nhiều năm mà một số cơ sở GD ĐH mới có hoặc vẫn chưa có đất xây dựng trường, hoặc phải loay hoay trong việc đền bù, giải phóng mặt bằng, cũng như không thể mở rộng quy mô nhà trường do diện tích xây dựng quá chật hẹp. Hiện nay vẫn còn 15/78 trường ĐH CĐ NCL chưa tiến hành xây dựng trường tại địa điểm đăng ký, còn phải thuê mướn cơ sở để đào tạo. Một số trường NCL tuy có đất nhưng chỉ đủ vốn đầu tư xây dựng và mua sắm trang thiết bị cầm chừng. Cũng cần nói thêm rằng việc được Nhà nước giao “đất sạch” vẫn đang còn là ước mơ xa vời của các trường thuộc khối NCL. Riêng chi phí về đất đai đã là gánh nặng đầu tư lớn nhất của các trường NCL, nên càng khó khăn xây dựng trường sở, chưa nói đến việc mua sắp trang thiết bị dạy học cũng cần đầu tư lớn.

 

Một số trường do có hướng đầu tư đúng nên sau một số năm hoạt động, đã xây dựng được cơ sở riêng rất khang trang. Phần lớn các trường đều tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đào tạo, giảng dạy và học tập. Một số trường đã xây dựng được các phòng thí nghiệm hiện đại. Một số cơ sở GDĐH NCL đã tập trung đầu tư để có được những chương trình hợp tác quốc tế hiệu quả, triển khai nhiều chương trình đào tạo tiên tiến trên cơ sở mua bản quyền của một số trường đại học hàng đầu thế giới.

 

5/ Kiểm định độc lập trong giáo dục đào tạo là cú hích cần thiết để nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Không có kiểm định độc lập, khách quan thì khó mà nói đến phát triển. Trong thời gian qua, ở nhiều trường NCL đã hình thành đơn vị chuyên trách về bảo đảm chất lượng và khảo thí. Phần lớn các trường đã hoàn thành khâu tự đánh giá chất lượng, mong muốn được tham gia kiểm định khách quan. Có một vài trường ĐH đã chủ động tham gia kiểm định quốc tế để biết được mặt mạnh, mặt yếu của mình mà phấn đấu hoàn thiện nâng cao. Có trường đã có kết quả xếp hạng quốc tế khá tốt như trường Đại học FPT.

 

II. BẢY KIẾN NGHỊ

Một là, Nhà nước giải bài toán nguồn lực phát triển giáo dục đào tạo  theo hướng mạnh dạn huy động thêm nguồn lực của xã hội. Trong hoàn cảnh của nước ta Nhà nước không thể đầu tư tràn lan cho các đại học mà chỉ nên tập trung vào các trường đại học trọng điểm, các khoa, ngành trọng điểm, phục vụ công quyền. Phát triển mạnh các trường NCL, đảm bảo tỷ lệ SVchiếm khoảng 40 – 50%.

 

Hai là, cần có quy định rõ ràng về các loại hình trường NCL vì lợi nhuận và không vì lợi nhuận. Và trên cơ sở đó xây dựng ban hành quy chế và hệ thống chính sách cho từng loại. Trong đó cần khuyến khích loại trường phi lợi nhuận. Trong các trường vì lợi nhuận thì đặc biệt quan tâm đến các giá trị phi vật chất được coi như vốn góp để đề cao vai trò các nhà khoa học, các nhà giáo là những người có công sáng lập trường.

 

Ba  là, Nhà nước tính rõ và công khai suất đầu tư tối thiểu cho từng SV theo các ngành nghề khác nhau, coi đó là cái chuẩn khách quan không thấp hơn được để xã hội biết, để báo cáo Quốc hội, để làm cơ sở xác định ngân sách cho giáo dục, để tính toán rót kinh phí cho các trường công, để xác định học phí hợp lý. Trong giai đoạn trước mắt đất nước còn khó khăn, cần giảm bớt bao cấp.

 

Bốn là, khi xác định đúng chi phí đào tạo tối thiểu thì không ít người không đủ tiền đi học. Nhà nước nên mở rộng tín dụng giáo dục hơn nữa bằng cách xã hội hoá việc này đến các ngân hàng thương mại, lập nhiều quỹ tín dụng giáo dục... Nhà nước chỉ gánh phần bù chênh lệch giữa lãi suất ưu đãi và lãi suất thương mại. Nếu nhà nước còn có thể hỗ trợ một phần chi phí đào tạo qua học phí học bổng, thì không phân biệt sv công lập, NCL, mà rót theo đầu SV về tận trường.

 

Năm là, về công tác tuyển sinh, chậm nhất là năm 2015 phải tiến tới thực hiện một kỳ thi sau THPT, lấy kết quả công nhận cấp bằng tốt nghiệp phổ thông và làm cơ sở để các trường đại học cao đẳng tuyển sinh. Trao quyền tự chủ về tuyển sinh cho các cơ sở GDĐH như khẳng định tại điều 34 của Luật Giáo dục đại học. Không có lý do gì kéo thêm 3 năm nữa mới làm. Làm càng sớm càng mang lại hiệu quả kinh tế to lớn, phù hợp xu thế chung của thế giới và điều kiện hiện nay của nước ta.

 

Sáu là, về vấn đề thuế. Đề nghị cho triển khai ngay Điểm a, Khoản 3, Điều 66 Luật Giáo dục đại học đã định chế rõ các khoản chi “đầu tư phát triển cơ sở GDĐH, cho các hoạt động giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, viên chức, cán bộ quản lý giáo dục, phục vụ hoạt động học tập và sinh hoạt của người học hoặc cho các mục đích từ thiện, thực hiện trách nhiệm xã hội. Phần này được miễn thuế ”.

 

Bảy là, cần sớm hình thành các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục độc lập để đẩy nhanh tiến độ triển khai công tác kiểm định, công nhận chất lượng các trường và các chương trình giáo dục. Thực hiện kiểm định thường xuyên là điều kiện để các trường nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Hiệp hội chúng tôi đã có hồ sơ văn bản trình Bộ GD&ĐT xin phép thành lập Trung tâm kiểm định GD ĐH từ năm 2011, đề nghị sớm giải quyết để đi vào hoạt động./(*)     

 

Hà Nội, ngày 14 tháng 3 năm 2014

------------------------ 

 

(*) Bài phát biểu của GS TS. Trần Hồng Quân tại Hội nghị Tổng kết 20 năm giáo dục đại học ngoài công lập, do Bộ GD&ĐT chủ trì tổ chức ngày 14/3/2014 

Sửa lần cuối vào

Bình luận

Để lại một bình luận

Tìm kiếm

Điện thoại liên hệ: 024 62946516