Đăng nhập

Top Panel
Trang nhấtGiáo dụcXÁC ĐỊNH ĐỐI TƯỢNG CHỨNG MINH TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ - THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP

XÁC ĐỊNH ĐỐI TƯỢNG CHỨNG MINH TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ - THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP

Thứ hai, 04 Tháng 8 2025 03:23

ĐÀO BẢO NGỌC[1]

Học viện Toà án

Nhận bài ngày 12/7/2025. Sửa chữa xong 25/7/2025. Duyệt đăng 03/8/2025.

Abstract
This article examines the concept and significance of identifying matters to be proved in the resolution of civil cases, including the responsible parties, methods, and challenges in determining these matters. Based on the analysis, the paper proposes several recommendations to improve both the legal framework and practical implementation related to identifying matters to be proved in civil proceedings. The aim is to facilitate a faster and more accurate evidentiary process, ensuring that civil cases are resolved correctly, objectively, and comprehensively.

Keywords: Evidence in civil cases, identification of matters to be proved, improvement of evidentiary activities.

1. Đặt vấn đề

Trong giải quyết vụ án dân sự (VADS), xác định đúng đối tượng chứng minh là nền tảng để định hướng thu thập, đánh giá chứng cứ, đảm bảo quá trình giải quyết được khách quan, toàn diện. Thực tiễn cho thấy, quá trình giải quyết một số vụ án bị kéo dài hoặc gặp vướng mắc do chưa xác định đầy đủ đối tượng chứng minh. Mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã quy định cơ bản nguyên tắc về cung cấp chứng cứ, nghĩa vụ chứng minh, nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể về phạm vi, nội dung đối tượng chứng minh, tạo khoảng trống pháp lý trong áp dụng. Để khắc phục những hạn chế trong hoạt động xét xử hiện nay, xây dựng cơ chế xác định đối tượng chứng minh là vấn đề rất cấp thiết.

2. Khái niệm xác định đối tượng chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự

Trong tố tụng dân sự (TTDS).“đối tượng chứng minh” được hiểu là các sự kiện, tình tiết liên quan đến VADS cần làm rõ để bảo đảm giải quyết vụ việc khách quan, toàn diện, đúng pháp luật. Theo Từ điển Tiếng Việt, “đối tượng” là “người, sự vật, hiện tượng được nhắm tới”, còn “chứng minh” có nghĩa là “xác định có căn cứ là đúng hay sai, có hay không” [4, tr.273, tr.467]. Chứng minh là quá trình các chủ thể tố tụng cung cấp, thu thập, đánh giá chứng cứ, chỉ ra cơ sở pháp lý để xác định bản chất sự việc.

Mặt khác, “xác định” được hiểu là: “đưa ra kết quả cụ thể, rõ ràng, chính xác sau khi nghiên cứu, tìm tòi, tính toán” [4, tr.1516]. Do đó, xác định đối tượng chứng minh chính là làm rõ các sự kiện, tình tiết cần thiết để xác định quyền, nghĩa vụ các bên, áp dụng đúng quy định pháp luật nội dung khi giải quyết tranh chấp. Việc xác định đúng đối tượng chứng minh đóng vai trò then chốt trong việc định hướng hoạt động chứng minh, bảo đảm quá trình giải quyết VADS diễn ra một cách đúng đắn, khách quan, toàn diện.

3. Quy định pháp luật về xác định đối tượng chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự

3.1. Chủ thể có nghĩa vụ xác định đối tượng chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự

Pháp luật đã ghi nhận các nguyên tắc, quy định liên quan đến nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh, trong đó gián tiếp bao hàm nghĩa vụ xác định đối tượng chứng minh. Theo đó, trong quá trình giải quyết VADS, hai chủ thể chính có nghĩa vụ xác định đối tượng chứng minh là đương sự, Tòa án.

3.1.1. Nghĩa vụ xác định đối tượng chứng minh của đương sự

Trong VADS, đương sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan [2,k 1 Điều 68]. Khoản 1 Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự xác định rõ nguyên tắc cung cấp chứng cứ, chứng minh trong TTDS như sau:

‘‘Đương sự có quyền, nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án, chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ, hợp pháp.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác có quyền, nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.”

Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 tiếp tục cụ thể hóa nguyên tắc trên khi quy định cụ thể nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự. Theo đó, đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh yêu cầu là có căn cứ, hợp pháp. Tuy nhiên, pháp luật cũng dự liệu những trường hợp ngoại lệ để đảm bảo cân bằng quyền lợi giữa các bên, bảo vệ nhóm yếu thế trong quan hệ pháp lý. Chẳng hạn, người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh; thay vào đó, bên kinh doanh có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại". Hoặc trong tranh chấp lao động, nếu người lao động không thể cung cấp tài liệu, chứng cứ do người sử dụng lao động đang quản lý, lưu giữ thì nghĩa vụ cung cấp chứng cứ đó sẽ chuyển sang người sử dụng lao động. Đặc biệt, khi người lao động khởi kiện vụ án liên quan đến đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc xử lý kỷ luật lao động, nghĩa vụ chứng minh sẽ thuộc về người sử dụng lao động.

Để bảo đảm công bằng, không chỉ người khởi kiện có nghĩa vụ chứng minh, mà đương sự phản đối yêu cầu của người khác cũng phải chứng minh cho sự phản đối đó. Đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, họ cũng phải cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu của mình (trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 91 nêu trên).

Trong trường hợp đương sự không đưa ra được hoặc không đưa ra đủ chứng cứ, Tòa án sẽ giải quyết vụ việc theo những chứng cứ có trong hồ sơ. Như vậy, nếu đương sự không thực hiện nghĩa vụ chứng minh có thể sẽ phải chịu bất lợi lớn trong quá trình tố tụng.

Quy định về cung cấp chứng cứ, chứng minh của đương sự trong TTDS xuất phát từ những cơ sở lý luận, thực tiễn. Trước hết, đương sự là người yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên phải chứng minh yêu cầu đó có căn cứ. Khác với tố tụng hình sự – nơi cơ quan tiến hành tố tụng đại diện Nhà nước phải chứng minh hành vi phạm tội, trong TTDS các bên bình đẳng, có quyền tự định đoạt, phải tự bảo vệ quyền lợi bằng việc đưa ra chứng cứ. Tòa án không thể thay họ thực hiện nghĩa vụ này mà chỉ xem xét chứng cứ do các bên cung cấp. Cách tiếp cận này buộc đương sự phải cân nhắc kỹ khi khởi kiện, tránh các yêu cầu tùy tiện, thiếu căn cứ.

Bên cạnh đó, đương sự chính là người trực tiếp tham gia quan hệ pháp luật tranh chấp, nắm rõ tình tiết vụ việc, có điều kiện tiếp cận chứng cứ đầy đủ hơn bất kỳ ai. Do đó, họ là chủ thể thích hợp nhất để cung cấp tài liệu, xác định sự thật khách quan. Tòa án chỉ đóng vai trò trọng tài, đánh giá chứng cứ, lời trình bày để đưa ra phán quyết, chứ không thể thay thế trách nhiệm chứng minh của các bên.

3.1.2. Nghĩa vụ xác định đối tượng chứng minh của Tòa án

Trong quá trình giải quyết VADS, Tòa án có vị trí rất quan trọng, là cơ quan giải quyết VADS, bảo vệ pháp luật, duy trì công lý. Vì vậy, khoản 2 Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 nhấn mạnh: “Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ, chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định. Cũng theo Điều 48 Bộ luật này, một trong các nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán khi được Chánh án Tòa án phân công là: “Tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ, tổ chức phiên tòa, phiên họp để giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.

Đương sự có quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh yêu cầu khởi kiện là có căn cứ, cho thấy quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, cần được bảo vệ. Đây là trách nhiệm cơ bản, trước tiên của các bên TTDS. Tuy nhiên, do xuất phát từ góc nhìn cá nhân, chứng cứ mà đương sự cung cấp thường mang tính chủ quan. Vì vậy, Tòa án với vai trò trung gian phải đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện để đảm bảo công bằng.

Để giải quyết vụ việc đúng pháp luật, Tòa án cần xác định chính xác đối tượng chứng minh – yếu tố nền tảng giúp làm rõ bản chất tranh chấp, quan hệ pháp luật liên quan, tính hợp pháp của chứng cứ. Chứng cứ được xem là “linh hồn” của quá trình giải quyết VADS; chỉ khi đối tượng chứng minh đúng, chứng cứ được thu thập, phân tích đầy đủ thì phán quyết của Tòa án mới bảo đảm khách quan, toàn diện. Thẩm phán phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc xác định đối tượng chứng minh, đánh giá chứng cứ. Trường hợp chứng cứ do đương sự cung cấp chưa đầy đủ, Tòa án có quyền yêu cầu bổ sung hoặc tự thu thập để làm sáng tỏ sự thật khách quan.

3.2. Phương thức xác định đối tượng chứng minh trong vụ án dân sự

Trong quá trình giải quyết VADS, đương sự, Tòa án tiếp cận việc xác định đối tượng chứng minh từ các góc độ khác nhau, tuy nhiên dù ở góc độ nào, việc xác định đối tượng chứng minh cũng có thể được thực hiện dựa trên những phương thức sau:

3.2.1. Xâu chuỗi, tổng hợp tất cả các sự kiện, tình tiết liên quan đến vụ án dân sự

Đây là một trong những cách thức cơ bản, hiệu quả nhất để xác định được đối tượng chứng minh của vụ án. Hoạt động xâu chuỗi, tổng hợp các sự kiện, tình tiết của vụ án giúp các chủ thể có cái nhìn toàn diện hơn, định hình những nội dung mấu chốt cần chứng minh.

Ví dụ, trong các vụ án xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ không có hôn nhân hợp pháp, việc xác định đối tượng chứng minh đòi hỏi phải tổng hợp các tình tiết liên quan như thời điểm thụ thai, thời gian mang thai, sinh con; khoảng thời gian hai bên có quan hệ; cũng như mối quan hệ thực tế giữa cha mẹ với con, tư cách, phẩm chất của người mẹ.

3.2.2. Nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng nội dung đơn khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập.

Sau khi thụ lý vụ án và tiếp nhận tài liệu, chứng cứ cùng ý kiến của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của người liên quan, Tòa án phải xem xét kỹ để xác định đối tượng chứng minh cũng như chứng cứ còn thiếu.

Tùy theo từng loại vụ việc, người khởi kiện cần gửi kèm theo đơn khởi kiện các chứng cứ, tài liệu cần thiết ban đầu. Chẳng hạn, với tranh chấp về hợp đồng, cần có bản hợp đồng hoặc giấy tờ xác nhận việc giao kết hợp đồng; các tài liệu về việc thực hiện nghĩa vụ, vi phạm nghĩa vụ. Với tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần nộp kèm chứng cứ về hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại, lỗi của các bên (biên bản của cơ quan công an, kết luận giám định...), thiệt hại đã xảy ra (hóa đơn thuốc, chứng từ chi phí sửa chữa tài sản...). Với tranh chấp về thừa kế, cần có di chúc (nếu có); giấy chứng tử, giấy tờ xác định di sản, xác định diện, hàng thừa kế.… Với tranh chấp về hôn nhân, gia đình, phải có giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, giấy khai sinh các con chung (nếu có con), giấy tờ chứng nhận sở hữu tài sản (chung hoặc riêng). Với tranh chấp về lao động, cần có các tài liệu như hợp đồng lao động, biên bản hòa giải tại cơ sở...

Về phía đương sự, khi nhận được thông báo thụ lý hoặc thông báo chấp nhận yêu cầu phản tố, các bên cần xem xét kỹ yêu cầu, chứng cứ đối phương cung cấp để xác định đối tượng chứng minh, chuẩn bị tài liệu, lập luận nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

          3.2.3. Tìm hiểu các quy định pháp luật, các điều kiện áp dụng đối với quan hệ pháp luật đó (nếu có):

          Mọi giao dịch dân sự đều phải tuân thủ quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân, Gia đình, Luật Thương mại... cùng các văn bản pháp luật liên quan. Vì vậy, khi phát sinh tranh chấp, đương sự, Tòa án càng cần nắm rõ các quy định có liên quan đến giao dịch, tranh chấp để xác định chính xác những tình tiết cần chứng minh, các chứng cứ phải cung cấp.

Trên thực tế, theo quy định pháp luật, nhiều giao dịch chỉ được công nhận nếu đáp ứng điều kiện nhất định. Ví dụ như hợp đồng trao đổi tài sản phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực hoặc đăng ký theo quy định pháp luật [1, Điều 455]; tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu [1, Điều 459]. Với quyền sử dụng đất, người sử dụng chỉ được chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho, thế chấp khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; đất hiện tại không tranh chấp, trong thời hạn sử dụng; quyền sử dụng đất không bị kê biên hay áp dụng biện pháp tạm thời [5, Điều 45]. Hay đối với nhà ở, công trình xây dựng hình thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh, phải đảm bảo đủ điều kiện về giấy tờ về quyền sử dụng cũng như giấy phép xây dựng, nghiệm thu hạ tầng theo quy định [6, Điều 24].

          Vì vậy, để xác định đúng, đầy đủ đối tượng chứng minh trong VADS, các chủ thể không chỉ dựa trên tình tiết vụ án mà còn phải nghiên cứu kỹ các quy định pháp luật điều chỉnh giao dịch tranh chấp, từ đó làm rõ các sự kiện, chứng cứ cần thiết phục vụ cho việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp, giải quyết vụ án đúng quy định.

4. Một số vướng mắc trong xác định đối tượng chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự, đề xuất hoàn thiện

4.1. Một số vướng mắc trong xác định đối tượng chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự

4.1.1. Hạn chế về hiểu biết pháp luật của người dân, chuyên môn của Thẩm phán ở một số khu vực, đặc biệt là vùng sâu vùng xa

Ở một số khu vực nước ta, phần lớn người dân chưa có hiểu biết pháp luật đầy đủ. Khi xảy ra tranh chấp, họ thường chỉ khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi, nhưng không nắm được đối tượng chứng minh là gì hay xác định những tài liệu, chứng cứ nào là cần thiết; dẫn đến việc giải quyết vụ án gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt ở các vùng nông thôn, trung du, miền núi hay cao nguyên, nơi dân trí còn chưa cao, người dân không đủ trình độ để tự xác định đối tượng chứng minh hay thu thập chứng cứ trong vụ án mà mình là đương sự. Điều kiện kinh tế của họ lại khó khăn nên hầu như không có khả năng thuê luật sư để bảo vệ quyền, lợi ích cho mình.

Mặt khác, trình độ chuyên môn, trách nhiệm của một số Thẩm phán còn hạn chế. Trong quá trình giải quyết vụ án, dù các cấp Tòa án đã rất nỗ lực nhưng không tránh khỏi sai sót. Đặc biệt, việc Thẩm phán xác định đối tượng chứng minh không đầy đủ, đánh giá chứng cứ thiếu khách quan, toàn diện dẫn đến hệ quả nghiêm trọng như: xác định sai quan hệ pháp luật tranh chấp, sai hoặc thiếu tư cách tham gia tố tụng, áp dụng pháp luật không chính xác, thậm chí vi phạm thủ tục tố tụng. Điều này khiến chất lượng bản án, quyết định sơ thẩm chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, kỳ vọng của xã hội. Chẳng hạn như vụ án sau đây [7]:

Tóm tắt nội dung vụ án: Vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông Trần Minh Hoạt, bà Bùi Thị Hiền liên quan đến diện tích 1.609 m² đất lâm nghiệp tại Xứ Gò Núi Ông, xã Bằng Luân, huyện Đoan Hùng. Ông Hoạt khai: từ năm 1979 gia đình ông được Hợp tác xã nông nghiệp Bằng Luân giao sử dụng 9.820 m² đất lâm nghiệp có hơn 150 cây cọ hơn 100 năm tuổi, sau đó UBND xã tiếp tục quản lý, xác nhận trong sổ thuế nông nghiệp gia đình. Gia đình ông sử dụng ổn định đất này để khai thác lá cọ, nộp nghĩa vụ nông nghiệp đến khi được miễn thuế năm 2004. Ông tố cáo bà Hiền đã lấn chiếm 1.609 m², trồng sắn, chè, từ 2016 trồng keo, làm ảnh hưởng cây cọ, thậm chí khiến 4 cây bị chết; yêu cầu trả lại đất, hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Hiền năm 1996.

Ngược lại, bà Hiền khẳng định: diện tích tranh chấp nằm trong 5.000 m² đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà từ năm 1996, do bà sử dụng từ 1980 đến nay nên không chấp nhận yêu cầu của ông Hoạt.

Quyết định của Tòa án: Bản án dân sự sơ thẩm số 45/2019/DS-ST ngày 28/11/2019 của TAND tỉnh Phú Thọ quyết định:

- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Minh Hoạt.

- Không chấp nhận yêu cầu của ông Hoạt về đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Hiền 5.000 m2 đất lâm nghiệp.

- Tạm giao cho ông Hoạt diện tích đất lâm nghiệp 1.609 m2, có tuyên kèm mốc giới.

-Khi bản án có hiệu lực, bà Hiền có nghĩa vụ thu hoạch toàn bộ cây cối trên diện tích 1.609 m2 đất nêu trên.

- Ông Hoạt có trách nhiệm thanh toán cho bà Hiền giá trị của 206 cây keo, ½ của 1.609 m2 đất; tổng cộng là 8.084.000đ.

Đồng tình với quan điểm của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Viểm Kiểm sát nhâm dâm Cấp cao tại Hà Nội, qua vụ án này, tác giả nhận thấy rằng:

- Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác định đầy đủ đối tượng chứng minh nên thu thập chứng cứ đầy đủ, chưa làm rõ một phần diện tích đất tranh chấp là 1.609 m2 giữa ông Trần Minh Hoạt, bà Bùi Thị Hiền khi ông Hoạt được giao cây cọ để thu hoạch thì chỉ được khai thác lá cọ hay được giao cả đất. Mặc dù, ông Hoạt không có tài liệu, chứng cứ chứng minh được giao quản lý sử dụng diện tích đất tranh chấp nhưng bản án sơ thẩm lại chấp nhận yêu cầu kiện đòi quyền sử dụng 1.609 m2 đất của ông Hoạt khi tài liệu, chứng cứ, ý kiến của các ngành, cấp liên quan còn mâu thuẫn.

Phòng Tài nguyên, Môi trường huyện Đoan Hùng ngày 23/11/2016 đề nghị Tòa án xem xét: ‘‘Nếu trước đây Hợp tác xã hoặc UBND xã Bằng Luân bán thanh lý cọ cho hộ dân thì đây là quỹ đất 1 do hộ gia đình quản lý, sử dụng, thì có thể giao diện tích đất trên cho hộ gia đình lập hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Nếu hợp tác xã Bằng Luân khi giải thể bàn giao lại cho UBND xã Bằng Luân, UBND xã cho các hộ thuê, nộp sản phẩm hàng năm về cây lá cọ thì là quỹ đất 2, thẩm quyền UBND xã Bằng Luân tiếp tục cho giao khoán”, nhưng Tòa án chưa xác minh, thu thập để làm rõ nội dung này.  

- Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng thẩm định, định giá,o ngày 20/4/2018 đối với 206 cây keo, 01 cây keo một năm tuổi có giá là 8.000 đồng. Nhưng tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm ngày 28/11/2019, thì số cây keo mà bà Hiền trồng đã được hơn hai năm tuổi. Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ thụ lý giải quyết nhưng không tiến hành thẩm đinh, định giá lại, cũng không yêu cầu đương sự cho ý kiến thỏa thuận (nếu có) về giá trị của cây trồng này mà tính giá trị từ năm 2018 là chưa phù hợp, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự.

4.1.2. Thực trạng hành nghề luật sư còn nhiều bất cập, hiệu quả hoạt động của các tổ chức pháp lý còn hạn chế

Luật sư giữ vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ đương sự xác định đối tượng chứng minh, thu thập, đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết VADS. Tuy nhiên, sự tham gia của họ hiện vẫn còn hạn chế, chủ yếu do những bất cập trong đội ngũ, thực trạng hành nghề. Số lượng luật sư ở Việt Nam vẫn thấp so với nhu cầu, đặc biệt tại các vùng sâu, vùng xa. Chất lượng đào tạo, hướng dẫn tập sự chưa đồng đều khiến một bộ phận luật sư thiếu kỹ năng cần thiết. Việc tuân thủ quy tắc đạo đức, kỷ luật nghề nghiệp chưa nghiêm, làm giảm uy tín của nghề. Thêm,o đó, vai trò của luật sư trong tố tụng nhiều khi chưa được coi trọng, một số thẩm phán còn xem nhẹ lập luận, chứng cứ luật sư cung cấp.

Bên cạnh đó, hoạt động trợ giúp pháp lý tuy có cơ sở pháp luật khá hoàn thiện nhưng hiệu quả còn hạn chế. Các nhóm yếu thế như người nghèo, người có công, đồng bào dân tộc thiểu số được hưởng quyền trợ giúp, song việc triển khai vẫn gặp nhiều khó khăn. Đội ngũ cán bộ trợ giúp chưa ổn định, chất lượng không đồng đều; cộng tác viên đông nhưng thiếu chuyên môn sâu. Mạng lưới trợ giúp pháp lý Nhà nước phân bố chưa đều, đặc biệt ở miền núi, vùng sâu, nơi nhu cầu cao. Cơ sở vật chất, kinh phí hạn chế càng khiến công tác này khó đáp ứng yêu cầu thực tiễn, ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân.

4.1.3. Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành chưa quy định rõ về đối tượng chứng minh

Xác định đối tượng chứng minh có ý nghĩa quan trọng trong việc làm rõ phạm vi, giới hạn chứng minh. Trong giải quyết vụ án hình sự, khi điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xác định có hay không có hành vi phạm tội, thời gian, địa điểm, các tình tiết liên quan; xác định người thực hiện hành vi, lỗi, mục đích, động cơ phạm tội, năng lực trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, cần làm rõ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân bị can, bị cáo; tính chất, mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra; nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm; cùng các tình tiết loại trừ hoặc miễn trách nhiệm, hình phạt [3, Điều 85]

Khác với vụ án hình sự, các VADS phát sinh chủ yếu từ quyền tự định đoạt của đương sự với chủ thể, nội dung rất đa dạng nên đối tượng chứng minh cũng phong phú hơn. Hiện nay, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 chưa quy định cụ thể về việc xác định đối tượng chứng minh, gây khó khăn cho đương sự lẫn Thẩm phán trong quá trình giải quyết. Các VADS bao trùm nhiều quan hệ trong đời sống, phụ thuộc yêu cầu khởi kiện, phản tố của các bên, nên việc xây dựng quy định chung về đối tượng chứng minh không hề đơn giản. Tuy vậy, nếu có hướng dẫn rõ ràng trong luật, đây sẽ là cơ sở quan trọng giúp đương sự, Thẩm phán xác định chính xác vấn đề cần làm rõ, thu thập chứng cứ hiệu quả, bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự toàn diện, khách quan.

4.2. Đề xuất phương án hoàn thiện trong việc xác định đối tượng chứng minh trong giải quyết vụ án dân sự

4.2.1. Cần chú trọng tăng cường tuyên truyền pháp luật cho người dân, nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán

 

Hiện nay, nhận thức pháp luật của người dân, nhất là ở nông thôn, miền núi vẫn còn hạn chế, khiến quyền lợi hợp pháp dễ bị xâm hại. Nhiều người không nắm rõ cơ sở pháp lý khi tham gia giao dịch dân sự, khi phát sinh tranh chấp cũng không biết cách bảo vệ quyền lợi theo quy định. Vì vậy, Nhà nước cần xây dựng kế hoạch phổ biến kiến thức pháp luật rộng rãi, giúp người dân hiểu, chủ động phòng ngừa rủi ro pháp lý. Hoạt động tuyên truyền có thể thực hiện qua tờ rơi, tài liệu đến từng hộ gia đình, các tổ chức đoàn thể hoặc phương tiện thông tin đại chúng, với nội dung ngắn gọn, dễ hiểu. Khi người dân được trang bị kiến thức pháp luật, tranh chấp sẽ giảm, quá trình giải quyết tại Tòa án cũng hiệu quả hơn.

Song song với đó, cần nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán nhằm khắc phục tình trạng xác định sai hoặc thiếu đối tượng chứng minh, đánh giá chứng cứ chưa khách quan. Công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cần được thực hiện thường xuyên, kết hợp với các diễn đàn trao đổi nghiệp vụ để chia sẻ kinh nghiệm, khắc phục sai sót. Đồng thời, cần có cơ chế giám sát, chế tài hợp lý để nhắc nhở, kỷ luật trong các trường hợp vi phạm, qua đó bảo đảm quá trình giải quyết vụ việc dân sự chính xác, khách quan, bảo vệ quyền lợi của người dân tốt hơn.

4.2.2. Cần nâng cao số lượng, chất lượng của đội ngũ luật sư, tổ chức trợ giúp pháp lý

Để khắc phục tình trạng đang tồn tại trong đội ngũ pháp lý, cần phát triển đồng bộ về số lượng, chất lượng luật sư, chú trọng đào tạo thế hệ mới có kiến thức chuyên môn, kỹ năng và đạo đức hành nghề. Liên đoàn Luật sư nên thường xuyên tổ chức các khóa bồi dưỡng nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ năng tranh tụng, bổ sung kỹ năng ngoại ngữ, giao tiếp để đáp ứng yêu cầu hội nhập. Việc phân bổ luật sư hợp lý, đặc biệt cho các khu vực vùng sâu, vùng xa cũng là yếu tố quan trọng.

Đối với trợ giúp pháp lý, cần xây dựng chiến lược phát triển lâu dài nhằm hoàn thiện khung pháp lý, mô hình tổ chức, phương thức thực hiện. Đặc biệt, cần chuyên môn hóa đội ngũ cán bộ, tạo cơ chế khuyến khích người am hiểu pháp luật tham gia. Việc học hỏi có chọn lọc kinh nghiệm từ các quốc gia có hệ thống trợ giúp pháp lý tiên tiến cũng sẽ giúp nâng cao hiệu quả, đáp ứng các chuẩn mực quốc tế.

4.2.3. Bổ sung quy định về xác định đối tượng chứng minh trong vụ án dân sự

Để tạo cơ sở thuận lợi cho đương sự, Thẩm phán khi xác định đối tượng chứng minh, thu thập chứng cứ cũng như làm rõ các tình tiết, sự kiện trong VADS, cần bổ sung một quy định về các nội dung cần làm rõ, chứng minh khi khởi kiện, giải quyết VADS. Có thể xây dựng quy định bao gồm các nội dung sau:

- Nguồn gốc phát sinh tranh chấp;

- Nguyên nhân, lý do mà mỗi bên đương sự hành động/không hành động để dẫn đến tranh chấp;

- Hậu quả mà mỗi bên đương sự phải gánh chịu phát sinh từ tranh chấp;

- Những giao dịch, tình tiết khác có liên quan đến tranh chấp.

       5. Kết luận

Việc xác định đúng đối tượng chứng minh giữ vai trò trung tâm trong giải quyết vụ án dân sự, là cơ sở để thu thập chứng cứ đầy đủ, đánh giá khách quan, áp dụng pháp luật chính xác. Những vướng mắc hiện nay xuất phát từ hạn chế của cả đương sự, cơ quan tiến hành tố tụng, khuôn khổ pháp luật. Để khắc phục, cần tăng cường nhận thức pháp luật cho người dân, nâng cao trình độ, trách nhiệm của Thẩm phán, phát triển hệ thống luật sư, trợ giúp pháp lý, bổ sung quy định rõ ràng về đối tượng chứng minh. Khi các yếu tố này được hoàn thiện, quá trình tố tụng dân sự mới thực sự bảo đảm công bằng, hiệu quả.

Tài liệu tham khảo

[1] Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015.

[2] Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.  

[3] Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

[4] Hoàng Phê (2020), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

[5] Quốc hội (2024), Luật Đất đai 2024.

[6] Quốc hội (2023), Luật Kinh doanh bất động sản 2023

[7] Viện Kiểm sát nhân dân Cấp cao (2021), Thông báo rút kinh nghiệm số 36/TB-VC1-V2.

Sửa lần cuối vào

Bình luận

Để lại một bình luận

Tìm kiếm

Điện thoại liên hệ: 024 62946516