Ban biên tập Tạp chí Giáo dục và Xã hội xin trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc trích đăng một số bài viết trong Hồi ký “Đã từng có một đại học mở như vậy” của tác giả GS.VS Cao Văn Phường (Nguyên Bí thư Đảng ủy Đại học Cần Thơ; Thành viên sáng lập – nguyên Hiệu trưởng Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh – Mô hình trường đại học mở với hai thử nghiệm đầu tiên của ngành giáo dục: Thử nghiệm về đàotạo mở, Thử nghiệm tổ chức hoạt động trường đại học không sử dụng ngân sách nhà nước; Chủ tịch Hội đồng Quản trị - Hiệu trưởng Trường Đại học Bình Dương; Chủ tịch Chi nhánh Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Liên bang Nga tại Việt Nam; Phó Chủ tịch Hiệp hội các trường Đại học Cao đẳng Ngoài công lập Việt Nam) do Nhà xuất bản Văn học xuất bản tháng 6 năm 2010, nhằm cung cấp thêm thông tin đến đọc giả quan tâm đến xây dựng nền giáo dục mở.
Kỳ 1: “20 NĂM NHÌN LẠI”
Gần đây, dư luận nói nhiều về việc Đại học Mở (Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) dường như đang phát triển chệch hướng. và có tin Bộ Giáo dục và Đào tạo muốn tìm cách chấn chỉnh lại các đại học này, nhưng….
Vấn đề đặt ra: Vậy, sự chệch hướng ấy nếu có, bắt nguồn từ đâu và từ khi nào?
Với Đại học Mở bán công Thành phố Hồ Chí Minh, nhìn vào những kết quả đạt được cũng như những đánh giá tích cực của lãnh đạo các cấp, các nhà giáo dục và khoa học cùng dư luận xã hội thì nó đã phát triển đúng chức năng của một đại học mở, thậm chí đang có một tiền đồ rực rỡ như tôi đã khẳng định thông qua những trang trong Hồi ký “Đã từng có một đại học mở như vậy” viết về giai đoạn từ 1990 đến 1995. Không chỉ bằng những đánh giá ở ngay thời điểm đó. Nhiều năm sau, tháng 7 năm 2000, lãnh đạo lúc bấy giờ của Bộ Giáo dục và Đào tạo – Bộ trưởng Nguyễn Minh Hiểu, trong lần đầu thị sát Đại học Mở Bán công đã thừa nhận đây là thành tích rất lớn của Đại học Mở Bán công thành phố Hồ Chí Minh” và khẳng định “phương thức quản lý mới (của nhà trường) đã giúp gợi mở một hướng rất đáng để suy nghĩ về quản lý đại học”.
Những bất cập trong sự phát triển của các đại học mở (không chỉ riêng Đại học Mở Bán công Thành phố Hồ Chí Minh) đã được dư luận quan tâm ngay từ cuối những năm 90 của thế kỷ trước. Cũng trong lần đến thăm nhà trường nói trên, Bộ trưởng Nguyễn Minh Hiển đã chỉ ra: “Đại học Mở Bán công dần dần không hiểu mình quản lý thế nào lại đưa nó giống như các trường đại học truyền thống, điều đó không đúng với mục tiêu ban đầu, “không đúng” – như cách nói của Bộ trưởng Nguyễn Minh Hiển hay cách khác “chệch hướng” là ở những điểm nào? Tôi không dám kết luận, chỉ xin nêu hiện tượng:
Về mặt sở hữu, Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh – như tên gọi là sự thử nghiệm thành công trong giai đoạn 1990-1995 của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho mô hình đại học ngoài công lập “tự hạch toán, không dựa vào ngân sách nhà nước” và trong khi kết quả ấy đã giúp cho sự phát triển mạnh mẽ về số lượng các đại học ngoài công lập như bây giờ chúng ta đang chứng kiến thì trái lại. Đại học Mở - Bán công ngày nay đã trở lại thành một đại học công lập dựa vào ngân sách nhà nước.
Sự thử nghiệm thứ hai là về mặt phương thức đào tạo, thử nghiệm về loại hình đào tạo mở, cũng đã khẳng định sự thành côn;g; trong giai đoạn 1990 – 1995. Còn bây giờ, ở tất cả các đại học mở, các lớp ghi danh theo nhu cầu người học không còn tồn tại, thay vào đó là nhà trường phải chờ chỉ tiêu phân bổ của Bộ theo cơ chế “xin – cho” như tất cả các đại học “truyền thống” khác, thực hiện thi tuyển sinh theo hình thức 3 chung. Đào tạo từ xa vẫn tồn tại nhưng không phải với phương thức đặc trưng của nó mà là một sự lai ghép mà tôi xin tạm gọi là “tại chỗ từ xa”. Lạ là với cách lai ghép này, không riêng các đại học mở mà nhiều đại học “truyền thống” cũng tham gia đào tạo từ xa (mà nếu làm đúng, làm tốt thì rất đáng hoan nghênh, nhưng…).
Tóm lại, “đại học mở” bây giờ cũng trở thành “đại học đóng” mất rồi.
Nguyên nhân từ đâu? Tôi không đủ tư cách để đi tìm nguyên nhân, nó có thể có nguyên nhân từ những người điều hành trực tiếp (lãnh đạo các đại học mở) mà cũng có thể có nguyên nhân từ cấp vĩ mô, nhưng tôi thì xin đổ lỗi do cơ chế, vì đổ lỗi do cơ chế tôi mới có thể bàn tiếp dễ dàng hơn.
Đại học mở được mở ra là nhằm tạo tối đa cơ hội cho những ai có thể và muốn học đại học, với triết lý: Con người là một thực thể động và là một thực thể lý trí. Đối với một nhà sản xuất hàng hóa, chất lượng đầu ra luôn tùy thuộc vào chất lượng đầu vào. Và để đảm bảo đầu ra, người ta buộc phải “cứng hóa” chất lượng đầu vào, dựa trên các chỉ số cố định. Một trường đại học truyền thống cũng cho ra lò những sản phẩm của mình theo một cung cách như vậy, đầu vào là một hằng số của những điều kiện.
Một người thi tuyển vào đại học, nếu không đạt được cái hằng số điều kiện ấy – được gọi là “điểm trần” hay “điểm sàn” cùng với những điều kiện về tuổi tác, sức khỏe, nơi cư trú,…thì phải đi chỗ khác chơi. Họ vẫn có thể có cơ hội nghề nghiệp thông qua những chương trình kiến thức thấp hơn (trung học chuyên nghiệp, dạy nghề,….) nhưng cơ hội học đại học sẽ hầu như bị phong tỏa.
Đào tạo mở cho một cách nhìn khác và do đó tạo mọi cơ hội cho người học. Cách nhìn, con người là một thực thể động, thực thể trí tuệ, do đó họ có thể học đại học ở đầu vào kiến thức cần và đủ tối thiểu, qua quá trình đào tạo tự thích ứng để phát triển, sàng lọc liên tục thông qua các kỳ thi kết thúc môn để cuối cùng ở đầu ra là những sản phẩm được xã hội chấp nhận. Có cơ hội, người học thấy mình bình đẳng và tự tin hơn. Vấn đề là Ai? Lãnh đạo, cấp điều hành, hay cơ chế? đã không tạo ra được (hoặc không muốn tạo ra) sự sàng lọc đủ mạnh để cuối cùng kêu lên: đào tạo mở kém chất lượng, ghi danh làm hỏng đại học và “đóng” nó lại. Các nhà quản lý thử tổ chức điều tra, thăm dò sinh viên tốt nghiệp những khóa học đầu theo hình thức ghi danh của Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh, xem họ đang làm gì? ở đâu? Chắc chắn sẽ có câu trả lời trung thực, thuyết phục thay vì những kết luận theo cảm tính. Xin lưu ý rằng ở nước láng giềng Thái Lan, Đại học ghi danh Sukhothai Thammathirat có lúc có tới gần nửa triệu sinh viên (ghi danh) nhưng số người lấy được bằng đại học chưa bao giờ vượt quá 20%, thậm chí 15%. Do được sàng lọc mạnh bằng các kỳ thi và cũng do nhiều người học chỉ cần lấy một phài học phần (tín chỉ) cho nhu cầu của mình, cái mà họ cần là kiến thức chứ không phải văn bằng.
Còn đại học từ xa (đào tạo từ xa), một cơ hội còn mở hơn nữa cho người học (nghĩa là về nguyên tắc, ở góc khuất nào, vùng sâu vùng xa nào về địa lý cũng có thể học đại học), tại sao phát triền ì ạch và lệch lạc ở nước ta? Trong nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân bài toán kinh tế. Đầu tư ban đầu cho đào tạo từ xa là tốn kém. Đây là những con số tính theo thời giá của nửa đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX:
- Chi cho việc ra đề thi: mỗi câu hỏi 10.000đ, thêm 10.000đ nữa cho người ra đề nếu việc thử nghiệm được chấp thuận. Ví dụ: môn học toán 400 câu hỏi, với một ngàn đề thi thì sẽ phải chi từ 8 đến 10 triệu đồng. Một ngành học có từ 50 – 70 môn học sẽ phải chi từ 400 đến 500 triệu đồng.
- Chi cho người giảng dạy: Giảng trên Đài phát thanh – Truyền hình hay Internet (cũng tức là ghi hình, ghi tiếng trên băng đĩa) khoảng 15 – 20 phút phải chi 200.000đ, mỗi môn có từ 14 – 16 bài giảng phải chi từ 2,8 đến 3,2 triệu đồng. Một ngành học có từ 50 – 70 môn phải chi từ 150 đến 200 triệu đồng.
Như vậy, chỉ riêng chi cho ngân hàng đề thi và bài giảng của một ngành học phải cần từ 450 đến 700 triệu đồng. Nếu là 5 ngành học, con số là khoảng 10 tỷ đồng. Đấy là chưa tính vào đây giá thành các điều kiện phải có: cơ sở hạ tầng, cơ sở in ấn, thu phát, cung cấp học liệu,….
Nói tóm lại, điều đã rõ ràng là với mục đích mở của nó, đào tạo từ xa được xem là một phương thức đào tạo hoàn toàn phi lợi nhuận. Và bởi thế, nó có phát triển được hay không, phát triển đúng hướng hay không, phải có sự quan tâm của Nhà nước. Nhà nước phải đầu tư lớn ban đầu, nếu không có được điều này thì sự dị dạng , méo mó của đào tạo từ xa là tất yếu.
Vào giai đoạn 1990 – 1995, Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh phát triển được phương thức đào tạo này một phần rất quan trọng là nhờ vào sự giúp đỡ của Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (Năm 2003 đến nay, Đài Phát thanh Truyền hình Bình Dương) và phần khác là sự cố gắng của một đại học tự hạch toán, nhưng cũng chỉ làm được với một kết quả rất khiêm tốn, chưa đáp ứng được lòng mong đợi của chúng tôi và người học, phải thừa nhận như vậy.
Vấn đề lợi nhuận: hiện nay khá nhiều nhà đầu tư cho mở trường đại học với mục tiêu trước tiên là vì lợi nhuận, mục tiêu này quyết định trực tiếp đến phương hướng phát triển của nhà trường. Chẳng hạn một trường đại học (xin được phép không nêu tên trường tại đây), ra đời cùng thời điểm với Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh, phương thức khoán quản tương tự, thu về không ít nhưng đến nay vẫn không phát triển thêm chút nào về cơ sở hạ tầng, trường lớp đều đi thuê. Ai cũng biết rõ lợi nhuận chảy về đâu, vấn đề đặt ra là phương hướng phát triển một đại học như vậy có chấp nhận được không? Ai là người điều chỉnh? Không thể xem trường đại học như một công ty cổ phần để tính toán chia lợi nhuận sau khi nộp thuế. Thành quả của giáo dục phải được xem là tài sản chung của xã hội, không ai được quyền chiếm đoạt cho riêng mình.
Hai mươi năm nhìn lại, tôi có thể tự hào về những công việc mà mình cùng đồng đội đã làm được đối với Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh. Chỉ tiếc rằng đã phải rời xa quá sớm….còn bao ý tưởng, bao dự án để hình thành “Siêu thị tri thức” chưa thực hiện được….
Kỳ tiếp theo: “ Trao quyền tự chủ cho đại học…”