Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển, GS Trần Đình Sử, GS Phan Trọng Luận, GS Nguyễn Minh Thuyết đồng chủ trì phần thảo luận chung tại Hội trường
Những hạn chế, bất cập cần phải xem xét và thay đổi
Nhận xét tổng quát về việc dạy học Ngữ văn hiện hành, PGS.TS Đỗ Ngọc Thống cho rằng: có 2 cách tiếp cận trong việc dạy học Ngữ văn hiện hành: Một là so với mục tiêu ban đầu để chỉ ra cái được và chưa được. Những cái chưa được gọi là hạn chế, nhược điểm. Hai là so với yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới và xu thế hiện đại của quốc tế để nhận xét và đánh giá. Những gì môn Ngữ văn hiện hành chưa đáp ứng được là những bất cập, không phải là nhược điểm. Việc nêu lên những gì chưa được nhằm hướng đến khắc phục chứ không phải là sự phủ định. Theo GS.TS Nguyễn Minh Thuyết, tính từ thời điểm ban hành Chương trình tiểu học, đến nay, CTGDPT đã được thực hiện tròn 11 năm. Đánh giá CCGDPT là việc làm cấp thiết để bắt tay vào xây dựng CT mới, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện GDVN. PGS.TS Đỗ Ngọc Thống chỉ ra những bất cập trong cấu trúc “kinh điển” của mục tiêu GD phổ thông hiện nay so với yêu cầu và xu thế mới đã bất cập: Thứ nhất, việc cung cấp kiến thức được coi là mục tiêu số một cho thấy chương trình tập trung nhấn mạnh kiến thức chứ không phải kỹ năng, năng lực. Thứ hai: các khái niệm “cơ bản, hiện đại” và nhất là tính hệ thống về ngôn ngữ và văn học đã tạo điều kiện cho các tác giả chương trình và SGK nghiêng về trang bị kiến thức mang tính hàn lâm và xây dựng môn Ngữ văn trong nhà trường tương ứng với toàn bộ khoa học Ngữ văn. Chương trình Ngữ văn hiện hành được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp nhưng nhìn chung nhiều bài chất lượng, hiệu quả chưa cao, nhất là tích hợp ở THPT. Việc thực hiện phân hóa vi mô chủ yếu phụ thuộc vào GV trên lớp trong mỗi tiết học nên rất khó đánh giá. Tính chất phân hóa vĩ mô còn thể hiện trên hình thức…
Về PP dạy và học Ngữ văn, tư tưởng và PP đọc hiểu mới dừng lại ở nhận thức là chính. Trong thực tế, dạy và học tư tưởng vừa nêu chưa được hiện thực hóa một cách toàn diện, đồng bộ và hiệu quả. Hạn chế lớn nhất trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập là chưa đánh giá đúng được sự vận dụng kiến thức một cách sáng tạo. Đề thi Ngữ văn chủ yếu vẫn là kiểm tra kiến thức, trí nhớ, tái hiện, làm theo, chép lại…Cũng nêu lên những hạn chế như vậy, GS.TS Nguyễn Minh Thuyết còn chỉ ra một số hạn chế khác như mức độ đáp ứng yêu cầu “ phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo” của chương trình SGK phổ thông chưa cao, một số nội dung dạy học còn cao đối với khả năng tiếp thu của HS, nhất là HS nông thôn, miền núi…Thời lượng dành cho một số nội dung học tập chưa hợp lý. Hầu hết tác phẩm dạy trong SGK THCS, THPT tuy có vị trí trong lịch sử văn học nhưng đã ra đời từ gẫn nửa thế kỷ, cho đến vài trăm năm, thậm chí cả nghìn năm, không còn phù hợp với tâm lý và xu hướng đọc sách của HS hiện nay.
Liên quan đến vấn đề đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho GV, GS.NGND Phan Trọng Luận báo động về đội ngũ GV Ngữ văn trong nước vừa thiếu, vừa yếu. Xu hướng cắt bớt thời gian ở bộ môn phương pháp xuất phát từ nhận thức không đúng về vai trò nghiệp vụ sư phạm trong trường dạy nghề; uy tín khoa học và nghiệp vụ của các giảng viên PP và hiệu quả hoạt động nghiệp vụ không có sức thuyết phục. Ngoài trăn trở về vấn đề quy hoạch đào tạo, làm vị thể của các trường sư phạm bị thu hẹp trước xu thế mở rộng chung, dẫn đến số lượng áp đảo chất lượng mà GS.NGND Phan Trọng Luận đã nêu, GS. NGND Trần Đình Sử còn nêu lên nhiều vấn đề nổi cộm khác ở nhiều phương diện. đặc biệt, với “thâm niên” của một nhà giáo giàu kinh nghiệm bồi dưỡng PP giảng dạy cho GV trong nhiều năm, ông nêu lên những hạn chế “cốt lõi”: Ít chú trọng thực hành, thực tập sư phạm; cách dạy, cách học ít chú trọng sáng tạo, thiên về thuộc kiến thức chuẩn; cái gọi là “giảng văn” và “văn mẫu” còn ngự trị quá lâu trong nhà trường; việc đào tạo GV tự khép kín trong khoa, hiếm giao lưu giảng dạy giữa các trường với nhau, bồi dưỡng GV chưa đáp ứng nhu cầu dạy học…
Hội thảo đã quy tụ được nhiều ý kiến đóng góp hữu ích của các GS đầu ngành, các nhà quản lý chuyên môn, các thầy cô giáo trực tiếp đứng lớp
Điều chỉnh có hiệu quả việc dạy học Ngữ văn trong bối cảnh và yêu cầu mới
Liên tục 3 buổi diễn ra Hội thảo, từ phần trình bày các báo cáo tham luận, phần thảo luận của các tiểu ban đến phần phát biểu ngay tại hội trường, Hội thảo đã nhận được nhiều ý kiến tham gia tích cực, có chất lượng, đầy tâm huyết của các nhà khoa học, quản lý chuyên môn, các thầy cô giáo trực tiếp đứng lớp.
Chủ trì phần thảo luận của Tiểu ban 1 về đánh giá chương trình, SGK hiện hành và đề xuất xây dựng chương trình, biên soạn SGK, tài liệu dạy học môn Ngữ Văn thực hiện đổi mới GDPT sau 2015, GS.NGND Nguyễn Minh Thuyết đã sơ kết 5 vấn đề chính, trong đó, có việc đưa ra các phương án khác nhau về tên gọi của môn học và đi đến thống nhất việc đặt tên là Ngữ văn. Một số báo cáo khẳng định tính tích hợp cao của môn Ngữ văn; môn tiếng Việt có tính công cụ giúp HS có được phương tiện học tập, sinh hoạt có hiệu quả trong đời sống; Văn học là công cụ cho HS chiếm lĩnh tác phẩm, có tính GD cao về tư tưởng, tình cảm, thẩm mỹ. Các đại biểu đều tán thành việc xây dựng chương trình Ngữ văn với định hướng khác biệt, phát triển chương trình theo định hướng năng lực, “Dạy Ngữ văn sao cho học sinh biết đau trước nỗi đau của nhân loại, biết vui, buồn, khóc cười cùng đồng loại”. Việc lưu ý đảm bảo mối quan hệ giữa ổn định và phát triển, đảm bảo tính kế thừa và phát triển; tăng cường tuyên truyền để tạo sự đồng thuận trong xã hội; đổi mới CT, SGK phải gắn với đổi mới kiểm tra, đánh giá, gắn với công tác đào tạo, bồi dưỡng GV của các trường SP-một loạt ý kiến đề xuất rất thiết thực của các đại biểu ở Tiểu ban 1.
Với sự chủ trì thảo luận của GS.NGND Phan Trọng Luận, các đại biểu ở Tiểu ban 2-PP dạy học và kiểm tra, đánh giá, cũng nhìn nhận một cách khách quan những ưu điểm cũng như những mặt còn hạn chế về PP dạy học Ngữ văn lâu nay, từ đó đưa ra những đề xuất: Chú trọng hơn nữa PP tự học cho HS, khả năng hợp tác, khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; đa dạng hóa các hình thức hoạt động học tập, xây dựng môi trường học tập tích cực, tương tác, thể hiện rõ đặc trưng bộ môn; tạo động lực học tập Ngữ văn cho HS, giúp HS thực sự hứng thú, say mê với môn học; sử dụng PP để giúp HS rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, hình thành năng lực giao tiếp, trong đó bao gồm cả giao tiếp đời sống và giao tiếp và nghệ thuật; tăng cường ứng dụng CNTT vào dạy học Ngữ văn; mở rộng nghiên cứu và chắt lọc những kinh nghiệm quốc tế vào dạy học và kiểm tra, đánh giá Ngữ văn…
Tại Tiểu ban 3-Về công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, GS.NGND Trần Đình Sử cũng khơi gợi được khá nhiều ý kiến của các đại biểu đánh giá về chất lượng đào tạo cũng như thực trạng đào tạo GV trong thời gian qua, từ đó bàn bạc nhiều giải pháp cụ thể để khắc phục hạn chế, từ sự thống nhất về khung chương trình, đào tạo GV theo hướng chuẩn nghề nghiệp, đổi mới quy trình, PP đào tạo, sự hợp tác, sẻ chia, trao đổi kinh nghiệm đào tạo giữa các trường tới đổi mới chính sách tuyển dụng, chế độ lương….Đặc biệt, cần đa dạng hóa, đổi mới nội dung, PP, hình thức bồi dưỡng GV; xây dựng đội ngũ báo cáo viên có tâm và có tầm, kết hợp lí luận và thực tiễn; phổ biến, hướng dẫn cụ thể để việc triển khai các lớp bồi dưỡng ở địa phương hiệu quả hơn.
Có thể nhận thấy rõ những kỳ vọng của hơn 500 đại biểu khi lắng nghe phần tổng kết đầy sức bao quát những vấn đề trọng tâm tại Hội thảo củaThứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển. Theo Thứ trưởng, với một nội dung sâu rộng, trên tất cả các phương diện, liên quan tới nhiều vấn đề khác đã làm nổi rõ một số vấn đề có tính thống nhất và gợi lên cả những vấn đề phải tiếp tục suy nghĩ, cân nhắc: Mục tiêu của CT, SGK hiện hành khá đầy đủ tuy nhiên còn những hạn chế nhất định. Năng lực phải là kiến thức, kỹ năng, thái độ nhưng phải làm thế nào cộng 3 yếu tố với nhau, đồng thời thêm những yếu tố khác (như động cơ, tình cảm, hoàn cảnh…) để tạo thành năng lực mới. Môn học tập trung vào năng lực giao tiếp cơ bản là nghe, nói, đọc, viết nhưng phải chú ý GD tình cảm, đạo đức, tính nhân văn và cả năng lực thẩm mỹ, văn hóa của HS. Chương trình, SGK sau 2015 phải khắc phục được nhược điểm, tìm ra thế mạnh cần phát huy. Chương trình từ lớp 1 đến lớp 12 cần có tính liên thông, nhất quán, theo nhu cầu vùng, miền, nhu cầu địa phương, phân hóa theo hướng nghề nghiệp, tránh trùng lặp không cần thiết. Chương trình mới phải theo trục tích hợp 4 kỹ năng giao tiếp, cần có sự hiểu đầy đủ, chính xác về Đọc-Hiểu. Bên cạnh rèn kỹ năng theo trục chính cần có phần tự chọn: tự chọn để phân hóa vĩ mô, tự chọn để phân hóa vi mô. Các văn bản được tuyển chọn phải phù hợp với lứa tuổi. Phần lịch sử văn học sẽ được hệ thống lại ở cuối cấp. Lý luận văn học sẽ được tích hợp trong PP đọc văn, tránh lý thuyết hàn lâm. Công tác biên soạn SGK và cấu trúc chương trình trong các năm tới phải có sự thay đổi; kiểm tra và đánh giá cụ thể, giúp đánh giá khách quan, tránh chung chung.
Cùng với việc xây dựng mục tiêu của CT, GSK mới,Thứ trưởng cũng đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của đổi mới PP dạy học theo hướng khuyến khích tính độc lập, chủ động, sáng tạo của HS; Đổi mới kiểm tra, đánh giá phải có tác dụng thúc đẩy hình thành năng lực, đặc biệt là việc coi trọng việc đa dạng hóa kiểm tra đánh giá…tất cả phải làm một cách thường xuyên, tích cực, ngay từ bây giờ, chứ không phải chờ tới năm 2015.
Về đổi mới đào tạo GV cũng cần phải làm ngay, nhưng lưu ý quán triệt mục tiêu đào tạo GV theo chuẩn phổ thông; đổi mới về hình thức, nội dung bồi dưỡng GV; phát hiện nhu cầu của GV. Thứ trưởng cho biết, Hiện nay, Bộ đang ban hành chương trình khung về bồi dưỡng; Vụ GD Trung học đang có chuyên đề đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn. Phải coi vai trò quản lý nhà trường là khâu đột phá, bồi dưỡng GV là then chốt. Tựu trung lại vẫn là: Làm thế nào để HS say mê học Ngữ văn, làm cho bộ môn hấp dẫn, có tính thiết thực…
Theo GD&TĐ