Mới đây Tòa Phúc thẩm, TAND Tối cao vừa đưa vụ án ra xét xử, theo đó tuyên hủy Quyết định số 376/QĐ-UBND ngày 18/4/2012 của Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái vì quyết định này được ban hành không đúng quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện.
Hồ sơ vụ việc cho thấy, nguồn gốc đất tranh chấp giữa 2 hộ gia đình đều do mua bán từ năm 1976 (gia đình bà Mùi mua của bà Đỗ Thị Dung, gia đình ông Cường mua của bà Lập; giấy tờ mua bán các bên đều bị thất lạc). Các bên đều chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Năm 1985, gia đình ông Cường xây nhà mái bằng tầng 1. Tiếp đó, năm 1988 xây thêm tầng 2, năm 1995 xây tường rào phía sau (nối liền từ mép tường nhà tầng 1 đến mép tường nhà ngang của ông Cường) tạo thành ranh giới ngăn cách giữa 2 hộ gia đình.
Nguyên nhân phát sinh tranh chấp là do năm 1988, gia đình ông Cường xây thêm tầng 2, diện tích mái tầng 2 đua ra về phía gia đình bà Mùi, tổng diện tích đua ra là 1,28m2.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Cường thừa nhận có xây đua sang phần đất nhà bà Mùi, có đi nhờ đường nước xuống dưới lối đi của bà Mùi. Hồ sơ kỹ thuật thửa đất của hộ ông Cường không thể hiện phần kích thước đua ra so với ranh giới tường rào ông Cường xây ngăn giữa 2 hộ gia đình.
Biên bản kiểm tra hiện trạng sử dụng đất do UBND TP Yên Bái lập ngày 20/7/2011, tổng thể diện tích đất của nhà ông Cường là 133,67m2; diện tích đang tranh chấp là 1,28m2. Chủ tịch UBND TP đã yêu cầu ông Cường phải cắt bỏ phần mái bê tông tầng 2 đua sang đất của hộ bà Mùi, đồng thời, tháo dỡ đường ống thoát nước do ông Cường đặt (nếu có) trên đất bà Mùi để trả lại diện tích đất khoảng không và dưới đất theo đường dây dọi theo ranh giới đất của hộ bà Mùi sử dụng.
Thế nhưng, tại biên bản kiểm tra hiện trạng sử dụng đất của Đoàn Thanh tra tỉnh Yên Bái lập ngày 15/11/2011, đất của hộ ông Cường có chiều dài theo mặt đường Đoàn Thị Điểm là 6m chưa tính 1,28m2 diện tích mái tầng 2 đua sang phía nhà bà Mùi. Diện tích đất hộ ông Cường hiện đang sử dụng vượt so với các giấy tờ khác liên quan đến việc sử dụng đất là 3,67m2. Năm 1985, ông Cường xây nhà tầng 1 thì bà Mùi vẫn ở nhà gỗ nên bên ngoài bức tường tầng 1 (phần tiếp giáp với nhà gỗ của bà Mùi) còn một phần diện tích chưa trát vữa tương ứng với đầu trái mái nhà gỗ cũ của hộ bà Mùi trước đây mà khi ông Cường xây nhà bị vướng không trát được.
Trên cơ sở kết quả kiểm tra của đoàn thanh tra, Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái đã ban hành Quyết định số 376/QĐ-UBND sửa đổi Quyết định số 2916 của UBND TP Yên Bái, quyết định giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất của hai hộ dưới sự quản lý của UBND phường Hồng Hà, không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 2 hộ đối với diện tích 1,28m2 mái tầng 2 đưa ra.
Trước sự giải quyết không đồng nhất của 2 cấp hành chính, bà Mùi đã khởi kiện tại TAND tỉnh Yên Bái, đồng thời đề nghị hủy toàn bộ Quyết định số 376 của UBND tỉnh.
Tại phiên tòa sơ thẩm, TAND tỉnh Yên Bái đã áp dụng các Điều 28, 30, 163, 174, 175, 176 Luật Tố tụng Hành chính, khoản 1 Điều 256 Bộ luật Dân sự; khoản 1 Điều 34 Pháp lệnh Án phí, lệ phí; bác đơn yêu cầu khởi kiện của bà Mùi và ông Thành.
Bà Mùi kháng cáo tại Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao.
Sau khi xem xét tính hợp pháp của Quyết định số 376 của Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái, hồ sơ vụ việc, lời khai của nguyên đơn, bị đơn, các bên có liên quan và ý kiến của đại diện Viện KSND Tối cao, TAND Tối cao xác định, Quyết định số 2619 của Chủ tịch UBND TP Yên Bái là đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Còn Quyết định số 376 của Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái được ban hành không đúng quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện nên cần hủy bỏ và yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận để sửa bản án sơ thẩm.
Từ căn cứ trên, TAND Tối cao quyết định sửa bản án sơ thẩm theo hướng hủy Quyết định số 376 của Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình ông Cường với hộ gia đình bà Mùi. Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái phải chịu tiền án phí hành chính sơ thẩm, bà Mùi được hoàn trả tiền tạm ứng án phí sơ thẩm và phúc thẩm.
TheoPhương Hiếu (Báo Thanh tra)