Nguyễn Thị Thuỳ Dung
Khoa Âm nhạc, Sân khấu & Điện ảnh,
Đại học Văn Lang
Abstract
The film is the result of creative cooperation between the director, actors, artists and cameramen” in the book “The Foundations of Directing”, by Russian-Soviet (former) cinematographer L. Kuleshov. If the director is a person who recreates reality to express a message or to send a question to life, then the actor is the person who helps the director express those messages and questions. In the relationship between the director and the actor, the director plays an indispensable role in helping the actor understand the character as well as orienting the performance. A relationship based on trust between the director and the actor is the key factor to create creative freedom.
In the scope of this article, the author wants to clarify the role and relationship between the director and the actor; the director's acting direction helps the actor to be able to transform into the role.
Keywords: The roles of directors and actors; the relationship between directors and actors; exploring character psychology from a psychoanalytic perspective; directing acting by directors.
1. Đặt vấn đề
Đạo diễn đóng vai trò trung tâm trong quá trình sản xuất phim, là người giữ nhiệm vụ định hình và hiện thực hóa tầm nhìn nghệ thuật của tác phẩm. Ở Pháp, đạo diễn phim được gọi là một réalisateur (người tái tạo hiện thực hay người kiến tạo). Điều này có vẻ hợp lý hơn khi so sánh với cách Mỹ gọi đạo diễn phim là một director (người chỉ đạo). Điện ảnh về bản chất là sự tái tạo về hiện thực của người đạo diễn, không chỉ đơn thuần bắt chước hay sao chép đời sống thực mà là chọn lọc những yếu tố cần thiết từ hiện thực và diễn giải nó chúng theo góc nhìn cá nhân. Hiện thực ấy được tái tạo qua hình ảnh, âm thanh, nhân vật – người diễn viên, và montage của người đạo diễn. Từ hiện thực được tái tạo ấy sẽ bật lên thông điệp, tư tưởng, cảm xúc mà đạo diễn muốn chia sẻ với khán giả. Chính vì vậy, cách gọi“réalisateur” ở Pháp thể hiện rất rõ tính chất sáng tạo và chủ động của đạo diễn trong việc kiến tạo một thế giới riêng biệt trên màn ảnh, một “ hiện thực” mà họ muốn người xem cảm nhận và suy ngẫm. Với vai trò một người kể chuyện, đạo diễn là người chịu trách nhiệm chuyển tải câu chuyện từ kịch bản lên màn ảnh một cách chân thực và lôi cuốn nhất. Nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của công tác đạo diễn là xác định tương đối tổng thể về ý đồ nghệ thuật thể hiện cho bộ phim, từ phong cách kể chuyện, tông phim, màu sắc cho đến chất liệu hay bố cục..., đây chính là cơ sở để người đạo diễn có thể điều khiển và kiểm soát sự sáng tạo nghệ thuật của các bộ phận khác nhằm phục vụ cho ý đồ nghệ thuật của mình. Họ không chỉ kể lại câu chuyện mà còn tạo nên một trải nghiệm điện ảnh độc đáo, mang dấu ấn cá nhân và tác động mạnh mẽ đến cảm xúc của khán giả. Nếu như đạo diễn là một người tái tạo hiện thực để bật lên một thông điệp hay để gửi một câu hỏi xuống cuộc đời thì người diễn viên chính là người giúp đạo diễn thể hiện được những thông điệp và câu hỏi ấy. Người diễn viên là những nhân vật trong bộ phim, qua quá trình những nhân vật ấy va đập với não trạng xã hội, con người, hoàn cảnh, với bản thân mới có thể làm bật lên được thông điệp của người đạo diễn cho khán giả nhận thấy và chiêm nghiệm.
2. Mối quan hệ của đạo diễn và diễn viên
Trong mối quan hệ giữa đạo diễn và diễn viên, đạo diễn đóng vai trò không thể thiếu trong việc giúp diễn viên thấu hiểu nhân vật cũng như định hướng diễn xuất. Họ là người cung cấp những chỉ dẫn cụ thể về tâm lý, động cơ và bối cảnh xã hội của nhân vật, từ đó giúp diễn viên thể hiện vai diễn một cách chân thực và sống động nhất. Một mối quan hệ dựa trên sự tin tưởng giữa đạo diễn và diễn viên là yếu tố then chốt để tạo nên sự tự do sáng tạo. Đạo diễn cần biết cách khai thác tiềm năng của diễn viên, đồng thời tạo ra một môi trường làm việc an toàn, nơi mà diễn viên có thể thoải mái thử nghiệm và bộc lộ cảm xúc, đạo diễn không chỉ đưa ra phản hồi và điều chỉnh để hoàn thiện diễn xuất mà còn khuyến khích sự hợp tác và sáng tạo từ diễn viên. Họ lắng nghe ý tưởng của diễn viên và cân nhắc những gợi ý đó để bổ sung vào vai diễn, tạo nên những khoảnh khắc bất ngờ và chân thực. Là người chỉ đạo diễn xuất trực tiếp cho diễn viên, người đạo diễn có vai trò và trách nhiệm rất lớn, cả về bộ phim, những người làm nên bộ phim và đặc biệt với cả những diễn viên. Người đạo diễn cần phải đảm bảo bộ phim được trọn vẹn cả về mặt hình thức và nội dung, ngoài ra còn phải đảm bảo diễn xuất của diễn viên luôn đúng với cấu trúc tâm lý của nhân vật và hoàn cảnh của nhân vật ấy. Chỉ cần tâm lý diễn xuất của diễn viên bị trật khỏi cấu trúc tâm lý của nhân vật sẽ gây sự gãy đổ cấu trúc nhân vật, lúc ấy nhân vật trong phim sẽ hành động khác đi với những gì mà nhân vật đã xây dựng ban đầu và sẽ vượt ra ngoài khỏi cả bối cảnh của bộ phim. Bản chất của người diễn viên điện ảnh mang tính lý luận sâu hơn những gì mà ta vẫn thường nghĩ. Dù xuất hiện chỉ là 2 giây, 3 giây trên một cắt cảnh, nhưng đó là 2, 3 giây với toàn bộ cấu trúc tâm lý của nhân vật trong phim, với những mâu thuẫn cùng sự va đập với não trạng, xã hội, con người và với nội tại bản thân. Nên 2, 3 giây ấy không phải của diễn viên mà là 2, 3 giây của một nhân vật thật sự. Người diễn viên cần một sự hiểu biết nhất định và khả năng giải phẫu, phân tích thật sâu vào nhân vật mình hóa thân cũng như bối cảnh mà bộ phim diễn ra mà người đạo diễn cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc tìm cách để diễn viên hiểu được thật trọn vẹn nhân vật và câu chuyện của mình để họ có được thật nhiều kinh nghiệm gián tiếp giúp phục vụ cho việc hóa thân thành nhân vật trong câu chuyện.
3. Khám phá tâm lý nhân vật và chỉ đạo sản xuất trong Tâm trạng khi yêu
Tâm trạng khi yêu là một bộ phim lãng mạn do nhà quay phim Christopher Doyle và Mark Lee Ping-Bing (Lý Bình Tân). Lấy cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết hiện đại Giao lộ (1972) của Liu Yichang, có cốt truyện đơn giản nhưng không khí phim lại bí ẩn. Đó là câu chuyện về hai người đã có gia đình, nhà văn Châu Mộ Vân làm ở tòa soạn báo (Lương Triều Vỹ ) và bà Trương (Trương Mạn Ngọc), là thư ký riêng cho ông chủ một công ty môi giới vận tải, có tên thời con gái là Tô Lệ Trân. Một ngày, họ thành hàng xóm trong một chung cư nhiều phòng. Tuy vậy, họ không mấy khi nhìn thấy bạn đời của đối phương và cũng không biết công việc của họ là gì, chỉ nghe nói bà Châu thì thường hay làm ca đêm còn ông Trương thì thường xuyên đi nước ngoài. Ban đầu khi gặp nhau, họ chỉ xã giao, thậm chí khách sáo. Nhưng không lâu sau, Mộ Vân và Lệ Trân bắt đầu nghi ngờ chồng người này ngoại tình với vợ người kia, rồi dần cả hai nhận ra mình cũng đang có tình ý với nhau. Bất ngờ bị đẩy vào hoàn cảnh trớ trêu, họ thầm thương trộm nhớ, cả hai lại càng kiềm chế và nghiêm khắc hơn với chính mình. Câu chuyện tình yêu đơn giản, ít thoại nhưng chứa đựng biết bao điều mà đạo diễn muốn gửi gắm. Bộ phim không chỉ là một câu chuyện tình yêu lãng mạn mà còn là một tác phẩm nghệ thuật khám phá tâm hồn con người và những vấn đề xã hội.
3.1. Chọn diễn viên và chỉ đạo diễn xuất
Chỉ đạo diễn xuất của đạo diễn là cách mà đạo diễn làm việc với diễn viên trong phim. Diễn viên là một trong những yếu tố quan trọng nhất đóng góp cho sự thành công của một tác phẩm điện ảnh. Việc lựa chọn diễn viên có ngoại hình và tính cách gần giống với nhân vật nhất sẽ đảm bảo cao nhất cho sự thành công của bộ phim, hoặc đạo diễn và bộ phim có thể bị rơi vào hoàn cảnh ngược lại: sự thất bại nếu đưa ra một lựa chọn diễn viên không phù hợp.
Công việc chỉ đạo diễn viên của đạo diễn căn cứ chủ yếu trên hai điều: thứ nhất là sự hiểu biết sâu sắc các nhân vật mà kịch bản mô tả, thứ hai là sự biểu hiện sâu sắc bản chất con người. Cách diễn xuất của diễn viên trong phim cần đảm bảo hai vấn đề này.
Nếu nói diễn xuất của diễn viên sân khấu phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào tài năng của họ thì với diễn viên điện ảnh diễn xuất của họ phụ thuộc rất lớn vào người đạo diễn vì đạo diễn là người quyết định cuối cùng trong một set quay. Đây là lúc kinh nghiệm gián tiếp của người diễn viên phát huy tác dụng, và người chịu trách nhiệm cho việc phát triển kinh nghiệm gián tiếp này của người diễn viên chắc chắn nằm ở vai trò người đạo diễn. Kinh nghiệm gián tiếp được xem là những kinh nghiệm tiếp thu được qua việc nghiên cứu, tìm tòi, học tập về một vấn đề có vẻ không thuộc với chuyên môn, xã hội, thời đại, tâm lý mà người diễn viên đang tồn tại và thực hành, như việc đọc sách giúp ta tiếp thu được kiến thức về lịch sử, xã hội, bối cảnh, kinh nghiệm mà ta khó có thể truy cập trực tiếp. Kinh nghiệm gián tiếp rất quan trọng với người diễn viên.
Bản chất của diễn viên điện ảnh đó là việc hóa thân thành một nhân vật với những cấu trúc tâm lý, hành vi phù hợp với bối cảnh hiện thực của người đạo diễn với những mâu thuẫn, va đập, não trạng và thời đại của hiện thực ấy. Nếu một người đạo diễn nắm rõ được bản chất ấy thì anh ấy/cô ấy chắc chắn có thể khiến một người diễn viên hóa thân hoàn toàn thành nhân vật trong hiện thực ấy của mình. Đạo diễn cần giúp người diễn viên của mình trong việc tiếp nhận kinh nghiệm gián tiếp. Cung cấp cho diễn viên hiểu được bối cảnh và hoàn cảnh của câu chuyện diễn ra, nhân vật của họ nằm trong não trạng nào và phải va đập với những gì ở não trạng ấy. Giúp người diễn viên nghiên cứu sâu qua những sách vở, làm việc và đối thoại với diễn viên để họ hiểu rõ về hiện thực của mình.
Người kể chuyện trong phim khác với người kể chuyện trong kịch vì người kể chuyện trong kịch chính là bản thân nhân vật đang diễn trên sân khấu, còn người kể chuyện trong phim là đạo diễn, vì đây là người có quyền lực thượng đế trong việc chỉ đạo quay phim, đồng thời là người tham gia vào việc viết kịch bản, tuyển diễn viên, phân cảnh quay... Tùy vào từng thể loại phim khác nhau, hoặc những phong cách đạo diễn của các đạo diễn khác nhau thì mỗi tác giả sẽ mang tới những hương vị khác nhau cho bộ phim.
Tâm trạng khi yêu, tuy cốt chuyện đơn giản nhưng cách kể của đạo diễn hấp dẫn, lôi cuốn qua hình ảnh, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, góc quay…, và đặc biệt là cách thể hiện của diễn viên. Thể hiện được điều mà đạo diễn mong muốn, đó là tài năng của diễn viên và cũng là cái tài chỉ đạo của người đạo diễn. Làm sao để diễn viên hiểu hết tâm tư hay ý đồ của đạo diễn, những ẩn ý được cài cắm của đạo diễn…tất cả những điều này ngoài việc diễn viên phải tìm hiểu sâu sắc về nhân vật và đạo diễn là người sát cánh với diễn viên, giúp diễn viên vì hơn ai hết đạo diễn là người hiểu rõ tác phẩm của mình.
Đôi lúc những kinh nghiệm trực tiếp của người diễn viên không thể nào hòa hợp được với nhân vật, đặc biệt khi nhân vật ấy tồn tại trong một bối cảnh hoàn toàn khác, với những não trạng, mâu thuẫn, sự va đập ở thời đại khác nhau.
Ví như trong Tâm trạng khi yêu, Đạo diễn Vương Gia Vệ đã tái hiện một Hồng Kông những năm 1960, đại diện cho thời thơ ấu thực sự của ông , và đó nỗi nhớ mang tính cá nhân, đối với một kỷ nguyên đã qua, được thể hiện qua các nhân vật của ông. Khi câu chuyện được định hình bởi quá khứ, họ nhận ra rằng quá khứ này đã qua và họ cảm thấy hoài niệm về nó. Nói về điều này, thì hơn ai hết đạo diễn Vương Gia Vệ là người hiểu về nó và phải truyền lại cho diễn viên bằng chính những trải nghiệm thực tế của ông.
Về vấn đề diễn xuất để hóa thân hoàn thành nhân vật trong phim lại là một điều sâu xa hơn rất nhiều. Điều này đụng vào kinh nghiệm trực tiếp và gián tiếp, cũng như tính cảm tri (tri giác) của một người diễn viên. Và một phần còn nằm ở việc cẩn thận chọn lựa diễn viên của người đạo diễn, một diễn viên có giống nhân vật đến thế nào cũng không bao giờ bằng một diễn viên cố gắng hiểu tại sao nhân vật ấy lại hành động như vậy trong câu chuyện của mình. Điều này buộc người diễn viên phải kiên nhẫn tìm hiểu sâu sắc về tâm lý con người, nghiên cứu sâu vào nhân vật, não trạng của nhân vật ấy. Và Vương Gia Vệ ban đầu đã thành công khi chọn Trương Mạn Ngọc và Lương Triều Vỹ là nhân vật chính trong câu chuyện tình yêu đầy phức tạp của mình.
Chính sự chỉ đạo tỉ mỉ của Vương Gia Vệ đối với các diễn viên là dấu ấn trong phong cách làm phim của ông. Phim của ông thiếu một kịch bản gắn kết và được quay dựa trên sự hợp tác giữa diễn viên và cảm xúc mà Vương Gia Vệ muốn cảnh phim truyền tải, thay vì áp đặt lời thoại. Các nhân vật của Vương Gia Vệ cùng phát triển và bộc lộ nhiều lớp chiều sâu khi câu chuyện mở ra. Câu chuyện tình yêu ban đầu được xác định bởi ấn tượng đầu tiên, rồi họ dần dần hé lộ những phức tạp ẩn giấu được định hình bởi sự sắp đặt của số phận. Những cuộc gặp gỡ tình cờ, và sự phức tạp của mối liên hệ giữa con người. Vương Gia Vệ để cho câu chuyện phát triển cùng các nhân vật, và ông là điều hướng để cho câu chuyện kể không đi lệch quỹ đạo mà ông đã đặt ra. Ông đặt diễn viên vào nhân vật và để họ tự do sáng tạo, đây là cách làm mạo hiểm, và phải mất rất nhiều thời gian. Nhưng với ông điều này không nghĩa lý gì, so với những mong muốn của ông là tạo ra “môi trường sống cho nhân vật” “xem họ sống” như thế nào, ông đứng đó chiêm nghiệm và chọn lọc. Sự khám phá và khai thác tâm lý này là một mô típ lặp đi lặp lại thấm nhuần vào cách kể chuyện của Vương Gia Vệ ngay từ đầu, tạo tiền đề cho hành trình nhân vật hấp dẫn và đa chiều.
3.2. Khám phá tâm lý nhân vật qua góc nhìn phân tâm học
Để chỉ đạo diễn xuất của người diễn viên người đạo diễn không những phải nắm rõ được tâm lý của cả nhân vật trong bộ phim của mình mà còn phải nắm rõ tâm lý người diễn viên. Hiểu được kinh nghiệm trực tiếp và gián tiếp của người diễn viên là một phần, nhưng việc nắm rõ được tâm lý sẽ giúp người đạo diễn biết được nên chỉ đạo diễn xuất cho người diễn viên ở phân đoạn bất kì. Điều này sẽ đụng đến tính cảm tri của người diễn viên trong việc hóa thân thành vai diễn. Dựa trên cuốn “Nghiên cứu tâm lý diễn xuất điện ảnh” của phó giáo sư Trung Quốc Tề Thổ Long, để nói về tính cảm tri của người diễn viên.
“Tính cảm tri” – tri giác, của diễn viên có thể hiểu là khả năng của họ trong việc cảm nhận, thấu hiểu và thể hiện cảm xúc một cách chân thực trong vai diễn. Đây là một yếu tố cực kỳ quan trọng, quyết định sự thành công và chiều sâu tâm lý của một người diễn viên. Tính cảm tri là một yếu tố then chốt làm nên một diễn viên tài năng, giúp họ không chỉ “đóng” vai mà còn “sống” với vai diễn, chạm đến trái tim khán giả tạo nên những tác phẩm có gía trị.
Tính lựa chọn của cảm tri: Do con người có cá tính nên tính chọn lựa của cảm tri (tri giác) cũng là một trong những nguyên nhân biểu hiện cá tính. Tính lựa chọn của cảm tri phản ánh khách quan nhu cầu, mục đích, hưng phấn, thái độ của cá tính của con người. Ví dụ như: một rừng cây trong con mắt những con người khác nhau, có người nhìn thấy nhiều cây xanh quá thì nghĩ đến tận hưởng không khí trong lành mát mẻ, có người nhìn thấy đốn lấy gỗ, có người nhìn thấy nhiều động vật hoang dã sống …v.v. Đó là tính lựa chọn khác nhau của cá tính trong mỗi hoàn cảnh cụ thể, thế nên trên thế giới này còn bao nhiêu người thì cũng có bấy nhiêu phong cách tạo nên một thế giới đầy màu sắc. Từ đó có thể thấy tính lựa chọn của tri giác là một trong những nguyên nhân căn bản giúp con người giữ được cá tính và tính cách, và điều này thể hiện qua cả vai diễn mà diễn viên phải hóa thân. Vai diễn mà diễn viên sáng tạo ở nhân vật phải thể hiện được sự chuyển biến cá tính giàu tính lựa chọn của cảm tri thể hiện qua nhân vật chứ không còn là của người diễn viên nữa.
Tính lý giải của cảm tri: Tri giác không chỉ đơn thuần là việc thu nhận thông tin, mà còn là quá trình gán ý nghĩa, giải thích cho những thông tin đó dựa trên kinh nghiệm, kiến thức và sự hiểu biết của cá nhân. Chúng ta không chỉ “thấy” mà còn “hiểu” những gì mình thấy. Ví dụ: Khi bạn nhìn thấy một vệt khói bốc lên từ xa, bạn không chỉ tri giác đó là “khói” mà còn có thể lí giải rằng “có đám cháy” hoặc “ai đó đang đốt rác”.
Người diễn viên thể hiện vai diễn hoàn toàn chuyển biến cá tính của cảm tri (tính lựa chọn), lấy đối tượng mà mình lựa chọn chuyển thành đối tượng mà vai diễn lựa chọn, lấy nhu cầu, mục đích, hưng phấn, thái độ của bản thân chuyển thành nguyện vọng, mục đích thái độ hưng phấn mà vai diễn cần có. Đó là khả năng lý giải của người diễn viên khi tiếp nhận một hệ thống hình tượng từ kịch bản để hiểu về bối cảnh và nhân vật, người diễn viên sẽ tìm cách lý giải để hiểu về nhân vật ấy. Tuy nhiên nếu sức lý giải không đủ để phát huy tác dụng để giải mã thì hình tượng văn học của vai diễn trong nội tâm của người diễn viên, thì lúc này cần sự phối hợp của người đạo diễn với người diễn viên. Người đạo diễn cần tạo ra những kinh nghiệm gián tiếp cho người diễn viên, giúp họ hiểu hơn về mục đích, thái độ, nhu cầu, trăn trở… của nhân vật trong hiện thực câu chuyện.
Tính thống nhất của cảm tri: Khi người diễn viên có đủ kinh nghiệm trực tiếp và gián tiếp, đủ các hệ thống về nhân vật và bối cảnh nhân vật của mình, người diễn viên ấy sẽ có thể thực hiện bước thống nhất với vai diễn để chuyển biến thành nhân vật, họ có thể sáng tạo dựa trên kinh nghiệm và cách lý giải riêng của bản thân mình, đây là điểm khác biệt giữa các diễn viên với nhau khi thể hiện một nhân vật. Do đặc điểm ấy nên đạo diễn phải hiểu cách khơi gợi hoàn cảnh để tạo khả năng thống nhất cho vai diễn của diễn viên. Người đạo diễn buộc phải nắm bắt tâm lý, hoàn cảnh cũng như khả năng hiểu riêng biệt của mỗi người diễn viên khác nhau, từ đó có cách khơi gợi cho phù hợp.
Trong thế giới điện ảnh của Vương Gia Vệ, các diễn viên chính thường có những màn trình diễn sắc thái đặc trưng bởi sự tinh tế và kiềm chế. Biểu cảm của họ thường được tiết chế, với cảm xúc ầm ỉ bên dưới bề mặt cho đến khi bùng nổ trong những khoảnh khắc kịch tính cao trào.
Vương Gia Vệ không chỉ kể một câu chuyện tình yêu đơn thuần, mà ông còn đi sâu vào khám phá tâm lý nhân vật, những góc khuất trong tâm hồn con người, những trạng thái cảm xúc phức tạp, những nỗi niềm sâu kín mà con người thường giấu kín. Qua ngôn ngữ cơ thể: hành động, cử chỉ, biểu cảm, những cái nhìn thoáng qua, những nụ cười mỉm, những giọt nước mắt lăn trên má... Tất cả đều thể hiện sự nội tâm phức tạp của các nhân vật, giúp khán giả hiểu rõ hơn về tâm lý của họ.
Ví như việc Tô Lệ Trân thường xuyên nhìn ra khung cửa sổ thể hiện sự cô đơn và khao khát được kết nối, hay cảnh ông Châu ngồi bên cửa sổ nhìn ra đường phố Hồng Kông, ký ức về bà Trương hiện lên trong tâm trí, làm nổi bật sự phức tạp trong tâm lý của nhân vật. Những cảnh quay này không chỉ thể hiện sự cô đơn mà còn thể hiện sức mạnh của ký ức trong việc định hình cảm xúc và hành vi.
Sự kìm nén cảm xúc và hành vi trong vô thức là điểm nổi bật trong tâm lý của cả Châu Mộ Văn và Tô Lệ Trân, là sự kìm nén mạnh mẽ các cảm xúc và ham muốn của họ. Họ phát hiện ra vợ/chồng mình ngoại tình nhưng thay vì đối mặt hay bộc lộ sự tức giận, đau khổ, họ lại chọn cách che giấu, kìm nén.
Theo phân tâm học Freud, đây là một cơ chế phòng vệ nhằm bảo vệ bản ngã (Ego) khỏi những tổn thương và xung đột nội tâm. Sự kìm nén này dẫn đến những hành vi và cử chỉ vô thức, tinh tế, như việc họ thường xuyên gặp gỡ nhau dưới những cơn mưa, trong những con hẻm nhỏ hoặc qua những bữa ăn tại quán mì, tạo nên một không gian riêng tư, ẩn chứa những khao khát thầm kín. Những cuộc trò chuyện về việc “diễn lại” cảnh ngoại tình của vợ/chồng họ cũng là một cách để họ vừa đối diện với nỗi đau, vừa gián tiếp bộc lộ sự thu hút lẫn nhau mà không dám thừa nhận. Những chiếc áo sườn xám liên tục thay đổi của Tô Lệ Trân không chỉ thể hiện gu thẩm mỹ mà còn là biểu tượng và ẩn dụ, tượng trưng cho sự thay đổi trong tâm trạng và bản ngã của cô. Ngôi nhà trọ chật hẹp, những con hẻm tối tăm, hay những khung cửa sổ có song sắt đều là những hình ảnh biểu tượng cho sự tù túng, kìm kẹp trong cuộc sống và tâm hồn của họ.
Trong lĩnh vực phân tâm học của Sigmund Freud, cấu trúc nhân cách được chia thành ba thành phần chính: Bản năng (Id), Bản ngã ( Ego) và Siệu bản ngã ( Superego). Ba yếu tố này tương tác với nhau để tạo nên sự phức tạp trong tính cách và hành vi của con người. Sự xung đột nội tâm cả hai nhân vật đều có một siêu bản ngã (Superego) rất mạnh mẽ, được hình thành từ những chuẩn mực đạo đức xã hội và văn hóa Á Đông sâu sắc. Họ biết rằng việc nảy sinh tình cảm với người đã có gia đình là điều không thể chấp nhận được. Điều này tạo ra một cuộc chiến nội tâm gay gắt giữa bản năng (Id) - khao khát tình yêu và sự gần gũi - và siêu bản ngã - tiếng nói của lương tâm và xã hội.
Cả Châu Mộ Văn và Tô Lệ Trân đều rất coi trọng "thể diện" và sự đánh giá của người khác. Họ luôn cố gắng giữ khoảng cách, duy trì một mối quan hệ "trong sáng" để tránh bị dị nghị. Nỗi sợ hãi sự phán xét từ những người hàng xóm tò mò (đại diện cho siêu bản ngã xã hội) đã kìm hãm họ rất nhiều.
Bản ngã (Ego) là trung gian giữa bản năng (Id) và siêu bản ngã (Superego) của họ, cố gắng cân bằng giữa những ham muốn vô thức và những giới hạn đạo đức. Sự lúng túng, ngại ngùng, và những hành động do dự của họ chính là biểu hiện của cuộc đấu tranh này. Họ tìm cách thể hiện tình cảm qua những cử chỉ nhỏ nhặt, ánh mắt, hoặc những lời nói ẩn ý, thay vì bộc lộ trực tiếp.
Việc vợ/chồng ngoại tình là một cú sốc, một sự mất mát lòng tin, khiến họ rơi vào trạng thái bơ vơ. Dù không được thể hiện rõ ràng trong phim, nhưng theo góc nhìn phân tâm học, nỗi cô đơn sâu sắc của hai nhân vật có thể bắt nguồn từ những " chấn thương" trong quá khứ hoặc những " mất mát" về tình cảm mà họ không thể gọi tên. Họ tìm đến nhau không chỉ vì sự thu hút giới tính mà tìm kiếm sự đồng cảm. Cả hai đều là nạn nhân của sự phản bội, và điều này tạo ra một " không gian an toàn" nơi họ có thể chia sẻ nỗi đau thầm kín mà không cần phải nói ra. Đây có thể được coi là một dạng " phóng chiếu" (projection) cảm xúc của bản thân lên đối phương.
Cái kết của phim, việc Châu Mộ Văn thì thầm bí mật vào hốc tường ở Angkor Wat và Tô Lệ Trân ghé thăm căn phòng cũ, là biểu tượng cho sự dằn vặt, hối tiếc và nỗi ám ảnh về một mối tình dang dở. Họ đã không thể vượt qua rào cản của siêu bản ngã và xã hội để thực hiện những khao khát sâu thẳm nhất của mình. Điều này để lại một nỗi buồn man mác, một sự " mất mát" vĩnh viễn trong tâm hồn.
Diễn xuất của Lương Triều Vỹ và Trương Mạn Ngọc là yếu tố then chốt để thể hiện chiều sâu tâm lý. Bằng ngôn ngữ cơ thể ánh mắt của họ chứa đựng rất nhiều điều không nói thành lời: sự e dè, khao khát, nỗi buồn, và cả sự thấu hiểu. Những ánh nhìn lướt qua nhau, những khoảnh khắc chạm mắt đầy ẩn ý đã truyền tải một cách xuất sắc những cảm xúc bị kìm nén. Những cử chỉ nhỏ như việc né tránh ánh mắt, sự lúng túng khi ở gần nhau, hay việc giữ khoảng cách vật lý nhưng lại gần gũi về mặt cảm xúc, đều cho thấy sự đấu tranh nội tâm mạnh mẽ. Trang phục, đặc biệt là những bộ sườn xám của Tô Lệ Trân, cũng góp phần thể hiện tâm trạng và sự khép kín của nhân vật.
Tóm lại, qua góc nhìn phân tâm học, diễn xuất của nhân vật chính trong Tâm trạng khi yêu không chỉ là việc thể hiện cảm xúc bề mặt, mà còn là sự khắc họa tinh tế những đấu tranh nội tâm, những kìm nén vô thức và những khao khát bị chôn giấu dưới lớp vỏ bọc của đạo đức xã hội. Đó là một bản giao hưởng của sự kìm nén và nỗi buồn, nơi tâm lý được phơi bày qua những cử chỉ nhỏ nhất. Ông đã thành công trong việc xây dựng một thế giới điện ảnh riêng biệt, nơi mà tình yêu, sự cô đơn, những nỗi niềm sâu kín của con người được khắc họa một cách tinh tế và đầy cảm xúc.
4. Kết luận
Tâm lý con người là một yếu tố quan trọng trong nghệ thuật kể chuyện của Vương Gia Vệ. Ông thường khai thác sâu sắc những cảm xúc nội tâm của nhân vật, từ nỗi cô đơn, khao khát đến sự hoài nghi và bất an. Khung hình và góc máy không chỉ đơn thuần là để ghi lại hình ảnh, mà còn là một ngôn ngữ điện ảnh tinh tế, góp phần tạo nên không khí đặc biệt và truyền tải sâu sắc những cảm xúc của nhân vật. Ông đã sử dụng các yếu tố văn hóa, tâm lý và xã hội để tạo ra những tác phẩm không chỉ đẹp về mặt hình thức mà còn sâu sắc về mặt nội dung, không chỉ tạo ra những câu chuyện tình yêu thông thường mà còn khai thác sâu sắc vào tâm lý và cảm xúc con người, những ẩn dụ chứa đựng những chiêm nghiệm đương đại về dòng chảy ý thức và vô thức của con người, như cuộc sống và sự tồn tại, tình yêu và tình bạn, thời gian và hồi ức, hiện thực và giấc mơ… Những ẩn ý đó có thể được lý giải từ thực tế tham chiếu của bối cảnh xã hội Hồng Kông trong thập niên 90 với sự kiện sát nhập lại Trung Quốc, luôn tạo ra những cảm giác bấp bênh, không rõ phương hướng về tương lai của từng cá nhân trải qua giai đoạn này. Trong Tâm trạng khi yêu, nhân vật hầu như không thể hiện “tình cảm”với nhau, mà cảm xúc đó bị kìm nén, đau đớn, để lại không gian cho chúng ta - những người xem phim cảm nhận tình cảm của họ qua hình ảnh hoàn toàn cụ thể – những biểu cảm trên khuôn mặt và ngôn ngữ cơ thể của diễn viên. Để chỉ đạo diễn xuất cho diễn viên, làm cho diễn viên hiểu những ức chế kìm nén bộc lộ ra hành vi vô thức mà nhân vật thể hiện là vô cùng khó khăn, vì tâm lý là phần phức tạp nhất của con người. Trong Tâm trạng khi yêu, Vương Gia Vệ đã làm được điều đó, đó là minh chứng cho sự tinh tế trong việc thể hiện những khía cạnh phức tạp của con người trong tình yêu. Chỉ đạo diễn xuất Vương Gia Vệ trong Tâm trạng khi yêu là một hành trình đi sâu vào trong tâm lý phức tạp của con người, trong thế giới của tình yêu và nỗi đau. Qua góc nhìn tâm lý học giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nghệ thuật kể chuyện của Vương Gia Vệ, cũng như những thông điệp sâu sắc mà ông muốn gửi gắm đến khán giả.
Tài liệu tham khảo
[1] Allan – Barbara Pease, Tìm hiểu Ngôn ngữ cơ thể, NXB Thanh Hoá, Nhân Văn biên dịch.
[2] Carl Jung (1969), Structure &Dynamics of the Psyche Vol 8,(Cấu trúc và động lực của tâm lý), Princeton University Press.
[3] L. Ku-le-sốp, Cơ sở đạo diễn, Matxcơva.
[4] John Powers (2016), Điện ảnh Vương Gia Vệ (Trần Minh - Phạm An dịch, hiệu đính Lê Hồng Lâm), NXB. Rizzoli- Thế giới.
[5] Tề Tổ Long (2004), Nghiên cứu tâm lý diễn xuất, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
[6] How to Direct Actors - Directing Advice from the Greats.
[8] Directing Actors - 24 Filmmakers on Writing, Casting, Prep, and Shooting.