LÊ VĂN THẮNG
Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh
Abstract
The article focuses on analyzing new points on the authority of the People's Procuracy in civil proceedings under Law No. 85/2025/QH15. These amendments are designed to ensure consistency, in accordance with the practice of judicial reform and international integration. However, the implementation process may encounter difficulties in terms of personnel, inter-sectoral coordination and pressure on the deadline for appeal. On that basis, the article proposes solutions to ensure that the new regulations are truly effective in practice.
Keywords: Authority; People's Procuracy; New Point; Law No. 85/2025/QH15
1. Đặt vấn đề
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 là đạo luật nền tảng quy định trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp dân sự, hôn nhân - gia đình, kinh doanh – thương mại và lao động, bảo vệ quyền con người, công dân. Sau gần mười năm thi hành, Bộ luật phát huy vai trò nhưng có hạn chế: phân định thẩm quyền giữa các cấp tòa án nhân dân chưa rõ, cơ chế kiểm sát của Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) còn vướng. Sự mơ hồ này dẫn tới áp dụng không thống nhất, giảm hiệu quả kiểm sát và ảnh hưởng quyền lợi hợp pháp của đương sự [1]. Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và tổ chức lại chính quyền địa phương, Quốc hội khóa XV ban hành Luật 85/2025/QH15 ngày 25/6/2025 sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự và một số luật liên quan; có hiệu lực từ 01/7/2025. Nghiên cứu các điểm mới về thẩm quyền của VKSND giúp đánh giá tác động và định hướng giải pháp triển khai trong thực tiễn.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Bối cảnh sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và sự cần thiết phải sửa đổi thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
2.1.1. Yêu cầu từ thực tiễn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
Một trong những hạn chế nổi bật của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 là chưa xác định rõ ràng phạm vi, cơ chế và giới hạn thẩm quyền của VKSND trong hoạt động tố tụng dân sự. Trong thực tế, việc áp dụng quy định về sự tham gia của VKSND trong các giai đoạn tố tụng đã tạo ra sự thiếu thống nhất giữa các địa phương. Ở một số nơi, VKSND tích cực tham gia kiểm sát từ khâu thụ lý, hòa giải cho đến xét xử, nhưng ở nơi khác lại chỉ tập trung vào khâu xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Sự không đồng bộ này dẫn tới tình trạng có vụ việc bị bỏ sót vi phạm, làm giảm hiệu quả giám sát việc tuân thủ pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Ngoài ra, cơ chế kiểm sát còn thiếu công cụ hữu hiệu để VKSND thực sự phát huy vai trò bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của VKSND nhiều khi chưa được TAND tiếp nhận, xem xét một cách nghiêm túc, khiến vai trò kiểm sát trở nên hình thức. Việc này tạo ra “khoảng trống pháp lý” trong việc đảm bảo tính khách quan, công bằng của quá trình giải quyết tranh chấp dân sự.
2.1.2. Yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW năm 2022
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII đã xác định cải cách tư pháp là nhiệm vụ trọng tâm, trong đó nhấn mạnh việc: “Hoàn thiện thể chế để VKSND thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; hoàn thiện cơ chế tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, tăng cường kiểm soát bên trong việc thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động xét xử phù hợp với nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Trong bối cảnh đó, Bộ luật Tố tụng dân sự cần được điều chỉnh để cụ thể hóa yêu cầu cải cách. Nếu VKSND không có cơ chế thẩm quyền rõ ràng, việc đảm bảo tính công bằng trong giải quyết tranh chấp dân sự sẽ khó đạt được, bởi tố tụng dân sự vốn liên quan trực tiếp đến quyền tài sản, quyền nhân thân của công dân – những lĩnh vực rất dễ phát sinh mâu thuẫn, xung đột lợi ích.
2.1.3. Yêu cầu từ hội nhập quốc tế và chuẩn mực công lý
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng, đã tham gia nhiều công ước quốc tế về quyền con người và thương mại. Các chuẩn mực quốc tế về tố tụng nhấn mạnh tính công bằng, minh bạch và đảm bảo quyền được xét xử công bằng. Trong nhiều hệ thống pháp luật tiên tiến, cơ chế giám sát của cơ quan công tố hoặc tương đương được thiết kế để đảm bảo rằng TAND thực thi đúng pháp luật, không thiên vị và không bỏ lọt vi phạm. Ví dụ, trong Công ước “Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một toà án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự, hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự” (Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR). Điều đó có nghĩa rằng hệ thống tố tụng dân sự phải tối thiểu bảo đảm: công khai (trừ ngoại lệ hẹp), độc lập – vô tư của TAND, bình đẳng giữa các bên, xét xử trong “thời hạn hợp lý”. Tại Việt Nam, VKSND góp phần rất lớn trong thực hiện cơ chế đó: thông qua quyền kháng nghị, kiến nghị và giám sát thủ tục để đảm bảo công khai, bình đẳng vũ khí tố tụng và thời hạn hợp lý; đồng thời giữ đúng ranh giới với nguyên tắc độc lập, vô tư của hoạt động xét xử.
Như vậy, sức ép từ hội nhập quốc tế đã trở thành động lực khách quan để Quốc hội sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, trong đó có nội dung mở rộng và cụ thể hóa thẩm quyền của VKSND nhằm củng cố nền tư pháp công bằng, minh bạch và hiệu quả hơn.
2.1.4. Yêu cầu từ thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội
Kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2015-2025 đã có nhiều thay đổi căn bản. Số lượng tranh chấp dân sự, thương mại, lao động tăng nhanh cả về quy mô và tính chất phức tạp. Nhiều vụ việc có giá trị tranh chấp lớn, liên quan đến nhiều bên, đòi hỏi sự giám sát chặt chẽ để đảm bảo quyền lợi của các đương sự. Trong bối cảnh đó, VKSND càng cần phát huy vai trò kiểm sát, tránh tình trạng TAND giải quyết thiếu khách quan, bỏ sót hoặc vi phạm tố tụng.
Ví dụ, về giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động, trong năm 2022, các TAND đã thụ lý 444.402 vụ việc; đã giải quyết, xét xử được 386.944 vụ việc; đạt tỷ lệ 87,07%, vượt 2,07% so với chỉ tiêu TAND đề ra. So với năm 2021, số thụ lý tăng 33.103 vụ; giải quyết, xét xử tăng 62.131 vụ. Trong đó, thụ lý sơ thẩm 426.279 vụ việc, đã giải quyết, xét xử 370.676 vụ việc; thụ lý phúc thẩm 17.165 vụ việc, đã giải quyết, xét xử 15.430 vụ việc; thụ lý giám đốc thẩm, tái thẩm 958 vụ việc, đã giải quyết, xét xử 838 vụ việc. Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là 0,61% (do nguyên nhân chủ quan 0,4%); bị sửa là 1,2% (do nguyên nhân chủ quan 0,5%), đáp ứng yêu cầu Nghị quyết Quốc hội và TAND đề ra [2].
Năm 2023, Trung tâm Trọng tài thương mại quốc tế Việt Nam (VIAC) đã thụ lý 424 vụ tranh chấp, tăng 46,2% so với số vụ tranh chấp tiếp nhận trong năm 2022. Số liệu thống kê cho thấy, đây là số vụ tranh chấp cao nhất được ghi nhận trong kỳ báo cáo năm kể từ khi VIAC thành lập đến nay. Các lĩnh vực tranh chấp nhiều nhất vẫn là mua bán, xuất nhập khẩu hàng hóa, hoạt động xây dựng (bao gồm cơ sở hạ tầng); số lượng tranh chấp trong lĩnh vực bất động sản tăng đột biến [3].
Đặc biệt, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế số, thương mại điện tử, hợp đồng thông minh… đặt ra những dạng tranh chấp mới. Nếu cơ chế thẩm quyền của VKSND không được cập nhật, cơ quan này sẽ khó có thể theo kịp và phát huy hiệu quả trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên cũng như lợi ích công cộng. Trong 9 tháng năm 2025, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia - Bộ Công Thương đã tiếp nhận 139 đơn thư khiếu nại trong lĩnh vực thương mại điện tử. Tỷ lệ này chiếm 21,7% tổng số đơn phản ánh của người tiêu dùng [4].
2.1.5. Hạn chế trong phối hợp giữa Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân
Thực tiễn còn cho thấy, giữa TAND và VKSND đôi khi tồn tại sự thiếu phối hợp. Có những vụ việc, VKSND chỉ tham gia hình thức, không được cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu để thực hiện kiểm sát. Ngược lại, một số TAND lại cho rằng sự tham gia quá sâu của VKSND có thể ảnh hưởng đến tính độc lập của TAND. Sự mâu thuẫn này phản ánh một lỗ hổng trong pháp luật hiện hành, khi chưa có quy định đủ rõ ràng về cơ chế phối hợp, phân định rành mạch phạm vi thẩm quyền. Chính vì vậy, việc sửa đổi để thiết lập một cơ chế cân bằng, vừa đảm bảo tính độc lập của TAND vừa nâng cao hiệu lực kiểm sát của VKSND là điều tất yếu [5].
2.1.6. Yêu cầu từ Nghị quyết số 74/NQ-CP ngày 07/4/2025 của Chính phủ
Nghị quyết số 74/NQ-CP ngày 07/4/2025 của Chính phủ nhấn mạnh nhiệm vụ thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp. Điều này dẫn đến yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, đặc biệt là các quy định về thẩm quyền của VKSND. Toàn bộ các quy định hiện hành về thẩm quyền của VKSND đang được thiết kế trên cơ sở 04 cấp (VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện (nay là VKSND Khu vực). Khi VKSND cấp cao và VKSND bị bãi bỏ thì bắt buộc phải sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Việc sửa đổi này không chỉ mang tính kỹ thuật lập pháp mà còn liên quan trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả của cơ chế kiểm sát. Nếu không được quy định chặt chẽ, có thể dẫn đến hai nguy cơ: (i) quyền kiểm sát bị gián đoạn ở cấp cơ sở, khiến các vi phạm tố tụng khó được phát hiện kịp thời; (ii) VKSND cấp tỉnh bị quá tải, làm giảm chất lượng kiểm sát. Do đó, sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự về thẩm quyền của VKSND trong bối cảnh mới là nhiệm vụ tất yếu. Đây không chỉ là sự thích ứng về mặt tổ chức mà còn nhằm đảm bảo cơ chế kiểm soát quyền lực tư pháp được vận hành thông suốt, đồng bộ với định hướng cải cách bộ máy nhà nước theo mô hình chính quyền 02 cấp.
2.2. Những điểm mới về thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự và những vấn đề đặt ra đối với thực tiễn
2.2.1. Những điểm mới quy định mới về thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
Luật số 85/2025/QH15 đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định quan trọng của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, trong đó đáng chú ý là các quy định liên quan đến thẩm quyền kháng nghị của VKSND. Những thay đổi này không chỉ mang ý nghĩa kỹ thuật lập pháp mà còn khẳng định vai trò của VKSND trong việc giám sát, đảm bảo tính hợp pháp, thống nhất của hoạt động tố tụng dân sự.
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung Điều 331 về người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Luật số 85/2025/QH15 đã sửa đổi Điều 331 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 theo hướng phân bổ lại thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm của VKSND. Trước đây, Viện trưởng VKSND cấp cao có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh và cấp huyện. Nay, do tổ chức lại chính quyền địa phương theo mô hình 2 cấp (tỉnh – xã) và thành lập TAND khu vực thay thế TAND cấp huyện, thẩm quyền này được chuyển giao cho Viện trưởng VKSND cấp tỉnh.
Theo đó:
- Viện trưởng VKSND tối cao có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực của TAND cấp tỉnh và các tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND.
- Viện trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của TAND khu vực trong phạm vi lãnh thổ.
Sửa đổi này giúp tinh giản hệ thống, đảm bảo thẩm quyền của VKSND phù hợp với mô hình TAND mới, đồng thời nâng cao vai trò, trách nhiệm của VKSND cấp tỉnh trong kiểm sát hoạt động tư pháp.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung Điều 354 về người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Điều 354 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định thẩm quyền kháng nghị tái thẩm được phân bổ cho cả Viện trưởng VKSND tối cao và Viện trưởng VKSND cấp cao. Theo đó, Viện trưởng VKSND tối cao có quyền kháng nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực của TAND cấp cao và các TAND khác khi xét thấy cần thiết; còn Viện trưởng VKSND cấp cao có quyền kháng nghị đối với bản án, quyết định của TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện trong phạm vi lãnh thổ. Tuy nhiên, Luật số 85/2025/QH15 đã sửa đổi, bổ sung Điều 354 theo hướng thu hẹp chủ thể có thẩm quyền, chỉ còn Viện trưởng VKSND tối cao có quyền kháng nghị tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực của TAND cấp tỉnh và các tòa án khác (trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao). Quyền kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao đã bị bãi bỏ. Sửa đổi này nhằm tinh gọn hệ thống, phù hợp với mô hình tổ chức TAND 2 cấp (tỉnh – xã) và việc thành lập TAND khu vực thay cho TAND cấp huyện, đồng thời tập trung thẩm quyền kháng nghị về VKSND tối cao để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong áp dụng pháp luật.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung Điều 442 về kháng cáo, kháng nghị (trong Chương XXXVI - Thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài; thủ tục xét đơn yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài)
Viện trưởng VKSND khu vực hoặc Viện trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền kháng nghị quyết định tạm đình chỉ việc xét đơn yêu cầu, quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài (khoản 4, khoản 5 Điều 437 Bộ luật Tố tụng dân sự), quyết định công nhận và cho thi hành tại Việt Nam, quyết định không công nhận bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài (khoản 5 Điều 438 Bộ luật Tố tụng dân sự) của TAND khu vực trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ, thời hạn kháng nghị của VKSND khu vực là 07 ngày, của VKSND cấp tỉnh là 10 ngày, kể từ ngày Viện Kiểm sát nhận được quyết định (khoản 2 Điều 442 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Quy định này đã cụ thể hóa rõ thẩm quyền của VKSND khu vực và cấp tỉnh, thay thế vai trò của VKSND cấp cao, đảm bảo sự phù hợp với mô hình tổ chức tư pháp mới theo hướng tinh gọn, hai cấp. Việc ấn định thời hạn kháng nghị 07–10 ngày giúp nâng cao tính kịp thời, hạn chế tình trạng kéo dài tố tụng và tăng cường hiệu quả kiểm tra việc tuân thủ pháp luật trong các vụ việc có yếu tố nước ngoài. Điểm mới này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, đồng thời góp phần củng cố niềm tin của xã hội vào cơ chế kiểm sát và hoạt động tư pháp dân sự minh bạch.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung Điều 461 (trong Chương XXXVII - Thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài)
Viện trưởng VKSND khu vực hoặc Viện trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền kháng nghị quyết định tạm đình chỉ việc xét đơn yêu cầu, quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài (khoản 2 và khoản 3 Điều 457 Bộ luật Tố tụng dân sự), quyết định công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài, quyết định không công nhận phán quyết của Trọng tài nước ngoài (khoản 5 Điều 458 Bộ luật Tố tụng dân sự) của TAND khu vực trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ, thời hạn kháng nghị của VKSND khu vực là 07 ngày, của VKSND cấp tỉnh là 10 ngày, kể từ ngày Viện Kiểm sát nhận được quyết định (khoản 2 Điều 461 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Quy định tại Điều 461 (sửa đổi 2025) đã cụ thể hóa rõ thẩm quyền kháng nghị của Viện trưởng VKSND khu vực và cấp tỉnh đối với các quyết định liên quan đến phán quyết của Trọng tài nước ngoài, thay thế cho VKSND cấp cao trước đây. Việc quy định rõ thời hạn 07–10 ngày giúp đảm bảo tính khẩn trương, kịp thời của hoạt động kiểm sát, tránh tình trạng kéo dài tố tụng hoặc bỏ lọt vi phạm. Điểm mới này góp phần tăng cường hiệu quả giám sát của VKSND trong các quan hệ dân sự – thương mại có yếu tố quốc tế, qua đó củng cố sự minh bạch và niềm tin vào tư pháp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.
Tóm lại, những sửa đổi, bổ sung của Luật số 85/2025/QH15 đối với Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã tạo ra bước điều chỉnh quan trọng trong việc xác định thẩm quyền kháng nghị của VKSND. Thẩm quyền này không chỉ tập trung ở cấp cao nhất mà được phân định xuống cấp tỉnh và khu vực, hình thành cơ chế giám sát đa tầng, phù hợp với mô hình tổ chức tư pháp mới theo hướng tinh gọn, hai cấp. Việc quy định rõ thời hạn kháng nghị từ 07–10 ngày giúp nâng cao tính kịp thời, hạn chế tình trạng kéo dài tố tụng và đảm bảo hiệu lực của hoạt động kiểm sát. Đặc biệt, việc trao cho VKSND quyền kháng nghị các quyết định liên quan đến bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài và phán quyết của Trọng tài nước ngoài không chỉ tăng cường hiệu quả giám sát mà còn thể hiện sự thích ứng của hệ thống pháp luật Việt Nam với bối cảnh hội nhập quốc tế, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và củng cố niềm tin vào tư pháp dân sự minh bạch, công bằng.
2.2.2. Những vấn đề đặt ra trong thực tiễn
Thứ nhất, về nhân sự: Việc mở rộng thẩm quyền kháng nghị đòi hỏi đội ngũ kiểm sát viên ở cấp tỉnh và khu vực phải có kiến thức chuyên sâu về pháp luật quốc tế, thương mại và trọng tài. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nguồn nhân lực này hiện còn mỏng, phần lớn kiểm sát viên mới quen thuộc với tố tụng dân sự trong nước, chưa được đào tạo bài bản về lĩnh vực có yếu tố nước ngoài.
Thứ hai, sự phối hợp liên ngành: Để đảm bảo hiệu quả, TAND và VKSND cần xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ, minh bạch trong quá trình giải quyết vụ việc. Nếu thiếu cơ chế phối hợp, rất dễ phát sinh tình trạng chồng chéo hoặc mâu thuẫn khi áp dụng pháp luật, làm giảm hiệu quả của hoạt động giám sát và kéo dài thời gian tố tụng.
Thứ ba, áp lực thời hạn: Luật quy định thời hạn kháng nghị ngắn (07 ngày đối với VKSND khu vực, 10 ngày đối với VKSND cấp tỉnh). Điều này đảm bảo tính kịp thời, nhưng cũng tạo ra áp lực lớn về khối lượng công việc, đòi hỏi bộ máy xử lý hồ sơ phải nhanh, chính xác. Nếu không có quy trình hợp lý, nguy cơ bỏ sót hoặc kháng nghị không đúng thời hạn là rất cao.
Thứ tư, văn bản hướng dẫn: Mặc dù các quy định mới về thẩm quyền kháng nghị đã và sẽ được cụ thể hóa thông qua nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hoặc thông tư liên tịch của VKSND tối cao và các cơ quan hữu quan, nhưng thách thức đặt ra là đảm bảo sự thống nhất trong cách hiểu và vận dụng. Thực tiễn cho thấy, nếu không có tập huấn đồng bộ và cơ chế giải thích kịp thời, các địa phương vẫn có nguy cơ áp dụng khác nhau, dẫn đến thiếu nhất quán trong hoạt động kiểm sát.
2.3. Giải pháp nhằm triển khai có hiệu quả những quy định mới về thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
Để các quy định mới của Luật số 85/2025/QH15 về thẩm quyền kháng nghị của VKSND thực sự đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả, cần có những giải pháp đồng bộ, khả thi trên cả phương diện nhân sự, tổ chức và pháp lý.
2.3.1. Nâng cao năng lực đội ngũ kiểm sát viên
VKSND các cấp cần chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng kiểm sát viên theo hướng chuyên sâu về pháp luật quốc tế, thương mại và trọng tài. Các khóa tập huấn nghiệp vụ cần được tổ chức thường xuyên, kết hợp với việc cập nhật kiến thức về các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Ngoài ra, cần khuyến khích việc học ngoại ngữ pháp lý để kiểm sát viên có thể tiếp cận trực tiếp tài liệu, phán quyết nước ngoài mà không phụ thuộc vào bản dịch.
2.3.2. Hoàn thiện cơ chế phối hợp liên ngành
TAND và VKSND cần xây dựng cơ chế phối hợp cụ thể về cung cấp, trao đổi hồ sơ, tài liệu, đảm bảo VKSND có thể tham gia giám sát từ giai đoạn thụ lý. Cần ban hành quy chế phối hợp ở cấp trung ương và tổ chức các hội nghị liên ngành để kịp thời tháo gỡ vướng mắc. Sự phối hợp này không chỉ giúp hạn chế mâu thuẫn trong áp dụng pháp luật mà còn tăng cường tính minh bạch, công khai trong hoạt động tố tụng.
2.3.3. Đổi mới quy trình xử lý hồ sơ nhằm đáp ứng yêu cầu thời hạn
Với thời hạn kháng nghị ngắn (07–10 ngày), VKSND cần cải tiến quy trình nội bộ, áp dụng công nghệ thông tin trong tiếp nhận và xử lý hồ sơ. Việc xây dựng hệ thống quản lý hồ sơ điện tử, cảnh báo tự động về thời hạn sẽ giúp hạn chế rủi ro bỏ sót hoặc kháng nghị chậm. Đồng thời, cần phân công nhân sự theo cơ chế trực chuyên trách để xử lý nhanh chóng các vụ việc có yếu tố nước ngoài.
2.3.4. Đảm bảo áp dụng thống nhất các văn bản hướng dẫn
Mặc dù đã có và sẽ có nghị quyết, thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành, song để tránh cách hiểu khác nhau, cần tổ chức các lớp tập huấn đồng bộ trên phạm vi toàn quốc. Bên cạnh đó, TAND tối cao và VKSNDTC nên thiết lập cơ chế giải đáp vướng mắc nghiệp vụ định kỳ hoặc trực tuyến, nhằm đảm bảo mọi địa phương đều áp dụng pháp luật thống nhất, hạn chế tình trạng “mỗi nơi một kiểu”.
2.3.5. Tăng cường hợp tác và học hỏi kinh nghiệm quốc tế
Trong bối cảnh số lượng vụ việc dân sự – thương mại xuyên biên giới ngày càng tăng, VKSND cần chủ động hợp tác với các cơ quan công tố, viện kiểm sát của các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế. Việc trao đổi kinh nghiệm, tham gia hội thảo quốc tế sẽ giúp kiểm sát viên nâng cao kỹ năng, đồng thời khẳng định vai trò của VKSND Việt Nam trong tiến trình hội nhập tư pháp toàn cầu.
2.3.6. Đảm bảo nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất
Để triển khai hiệu quả các quy định mới, Nhà nước cần quan tâm đầu tư ngân sách cho hoạt động đào tạo, ứng dụng công nghệ thông tin và hợp tác quốc tế. Đồng thời, cần tăng cường chính sách đãi ngộ hợp lý để thu hút, giữ chân những cán bộ có trình độ cao, am hiểu chuyên sâu về lĩnh vực dân sự – thương mại quốc tế và trọng tài.
3. Kết luận
Những điểm sửa đổi, bổ sung của Luật số 85/2025/QH15 về thẩm quyền của VKSND trong tố tụng dân sự đã tạo ra bước điều chỉnh quan trọng, đảm bảo sự phù hợp với mô hình tư pháp hai cấp và yêu cầu cải cách tư pháp. Các quy định mới không chỉ nâng cao hiệu quả giám sát tính hợp pháp của hoạt động tố tụng mà còn góp phần bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đồng thời, việc mở rộng thẩm quyền sang các quan hệ dân sự – thương mại có yếu tố nước ngoài thể hiện sự thích ứng của pháp luật Việt Nam với bối cảnh hội nhập quốc tế. Đây là nền tảng để củng cố niềm tin của xã hội vào một nền tư pháp công bằng, minh bạch và hiệu quả.
Tài liệu tham khảo
- Nguyễn Thị Hà Phương (2023), Thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, một số hạn chế, bất cập và một số kiến nghị, giải pháp khắc phục, website: vkshanoi.gov.vn, cập nhật: 06/9/2023, https://vkshanoi.gov.vn/Tin-t%E1%BB%A9c/Di%E1%BB%85n-%C4%91%C3%A0n-nghi%E1%BB%87p-v%E1%BB%A5/thuc-tien-thi-hanh-bo-luat-to-tung-dan-su-nam-2015-mot-so-han-che-bat-cap-va-mot-so-kien-nghi-giai-phap-khac-phuc
- Bảo Thư (2022), Năm 2022, số lượng, chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ việc đạt và vượt các chỉ tiêu, yêu cầu đề ra, Tạp chí Tòa án nhân dân, cập nhật: 22/12/2022 10:10, https://tapchitoaan.vn/nam-2022-so-luong-chat-luong-giai-quyet-xet-xu-cac-loai-vu-viec-dat-va-vuot-cac-chi-tieu-yeu-cau-de-ra7749.html
- Trung tâm Trọng tài thương mại quốc tế Việt Nam (VIAC) (2023), Báo cáo thường niên 2023: Hoạt động Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài tại VIAC, https://www.viac.vn/images/Resources/Annual-Reports/2023/Bao-cao-thuong-nien-2023_240829.pdf
- Tuấn Ngọc (2025), Số đơn khiếu nại trong lĩnh vực thương mại điện tử chiếm 21,7%, Tạp chí Thương hiệu và Công luận, cập nhật: 17:48 26/09/2025, https://thuonghieucongluan.com.vn/so-don-khieu-nai-trong-linh-vuc-thuong-mai-dien-tu-chiem-21-7-a282292.html
- TS. Lê Ngọc Duy (2023), Hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân, Tạp chí Kiểm sát in số 22/2023, https://vksquangngai.gov.vn/hoan-thien-phap-luat-to-tung-dan-su-ve-vai-tro-cua-vien-kiem-sat-nhan-dan-trong-bao-ve-quyen-con-nguoi-quyen-cong-dan-800.html