ThS. Trương Vương Khánh
Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng và Nghiệp vụ Ngoại ngữ,
Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh
Email: t.vkhanh@hcmca.edu.vn
Tóm tắt
Bài viết làm rõ yêu cầu đổi mới phương thức phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong mô hình chính quyền đô thị hai cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó dân chủ phải chuyển từ hình thức tham dự sang đồng kiến tạo chính sách. Thực tiễn cho thấy đối thoại, giám sát xã hội và dân chủ số đã được mở rộng nhưng chất lượng chưa đồng đều, nhất là ở cấp cơ sở và nhóm dân cư biến động. Vì vậy, cần phát triển hệ sinh thái dân chủ số, nâng cao vai trò Mặt trận Tổ quốc, củng cố cộng đồng tự quản và tăng năng lực cán bộ cơ sở. Mục tiêu là xây dựng chính quyền đô thị minh bạch, phục vụ và kiến tạo phát triển dựa trên niềm tin và đồng thuận xã hội.
Từ khóa: đổi mới phương thức, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, chính quyền đô thị hai cấp, dân chủ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Abstract
The article clarifies the requirement to innovate the methods for promoting the people's right to mastery within the two-tier urban government model in Ho Chi Minh City, in which democracy must shift from participatory forms to co-creation of policy. In practice, dialogue, social supervision, and digital democracy have been expanded, but their quality remains uneven, especially at the grassroots level and among mobile population groups. Therefore, it is necessary to develop a digital democracy ecosystem, enhance the role of the Vietnam Fatherland Front, strengthen self-governing communities, and improve the capacity of grassroots-level cadres. The goal is to build a transparent, service-oriented urban government that facilitates development based on trust and social consensus.
Keywords: Innovation of methods, promoting the people’s right to mastery, two-tier urban government, democracy, Ho Chi Minh City.
1. Đặt vấn đề
Thành phố Hồ Chí Minh là địa bàn tiên phong trong cả nước triển khai mô hình chính quyền đô thị hai cấp theo Nghị quyết số 131/2020/QH14 [9] và Nghị quyết số 1111/2020/UBTVQH14 [10], qua đó bãi bỏ Hội đồng Nhân dân ở cấp quận và phường nhằm tinh gọn bộ máy, tăng tính chủ động và nâng cao năng lực điều hành của chính quyền đô thị trong bối cảnh tốc độ đô thị hóa nhanh và yêu cầu ra quyết định chính sách ngày càng kịp thời, linh hoạt. Sự thay đổi này không chỉ là cải cách kỹ thuật về tổ chức bộ máy mà là sự chuyển dịch về phương thức vận hành quyền lực nhà nước trong không gian đô thị phức hợp, nơi các vấn đề công cộng diễn biến nhanh, đan xen lợi ích kinh tế - xã hội và đòi hỏi khả năng phản ứng chính sách tức thời. Tuy nhiên, việc giảm một tầng đại diện dân cử, đồng thời đặt ra thách thức mới về bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. Khi cơ chế dân chủ đại diện được thu gọn, yêu cầu về dân chủ tham gia, dân chủ cơ sở và dân chủ giám sát phải được mở rộng để tránh hiện tượng chính quyền vận hành khép kín, xa rời thực tiễn đời sống và làm suy giảm niềm tin chính trị của người dân. Trong điều kiện đó, bảo đảm dân chủ XHCN không chỉ dừng lại ở việc khẳng định quyền của Nhân dân trên phương diện pháp lý mà đòi hỏi thiết lập những cơ chế thực hành dân chủ hữu hiệu, có khả năng chuyển hóa ý chí, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của người dân thành cơ sở của quyết định công, đồng thời bảo đảm trách nhiệm giải trình và sự minh bạch trong hoạt động quản trị đô thị. Điều này đặc biệt quan trọng vì niềm tin của Nhân dân không hình thành từ tuyên truyền hay cam kết chính trị đơn thuần mà từ hiệu quả công vụ, từ cảm nhận trực tiếp về sự tôn trọng, lắng nghe và đồng hành của chính quyền trong giải quyết các vấn đề của đời sống hàng ngày.
Do vậy, bài viết hướng tới phân tích nền tảng lý luận của quyền làm chủ trong chính quyền đô thị hiện đại, đánh giá thực tiễn tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua, làm rõ những điểm mạnh, hạn chế và nguyên nhân của chúng, từ đó đề xuất định hướng và giải pháp đổi mới phương thức phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa hiệu quả điều hành và sự đồng thuận xã hội. Mục tiêu cuối cùng là góp phần xây dựng một chính quyền đô thị hiện đại, minh bạch, phục vụ và kiến tạo phát triển, nơi Nhân dân vừa là chủ thể quyền lực, vừa là đối tác đồng hành trong quản trị thành phố.
2. Cơ sở lý luận và tiếp cận phương pháp
2.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa trong tư tưởng Mác-Lênin
Trong tư tưởng Mác-Lênin, dân chủ XHCH được xác định không chỉ như một hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, mà là phương thức để Nhân dân thực sự trở thành chủ thể của quyền lực. C. Mác khẳng định: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của chính bản thân giai cấp công nhân” [1], qua đó nhấn mạnh dân chủ chỉ có ý nghĩa khi Nhân dân trực tiếp tham gia quyết định vận mệnh chính trị và sự phát triển xã hội của mình. Dân chủ XHCN vì thế không phải là dân chủ hình thức, mà là dân chủ thực chất, dựa trên quyền làm chủ của đông đảo quần chúng.
V. I. Lênin phát triển luận điểm này khi nhấn mạnh vai trò tất yếu của tổ chức chính trị tiên phong. Ông khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng” [11], chỉ ra rằng dân chủ XHCN không tách rời sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là lực lượng tổ chức, định hướng và bảo đảm quyền lực của Nhân dân được thực hiện đúng mục tiêu lịch sử. Tuy nhiên, sự lãnh đạo này không thay thế vai trò của Nhân dân mà nhằm bảo đảm Nhân dân được phát huy quyền lực của mình một cách có tổ chức và hiệu quả, tránh tình trạng dân chủ bị vô hiệu hóa bởi lợi ích nhóm hoặc các thế lực chi phối. Vì vậy, dân chủ XHCN là mô hình trong đó: Nhân dân giữ vị trí chủ thể quyền lực, Đảng giữ vai trò lãnh đạo định hướng, Nhà nước là công cụ tổ chức thực thi quyền lực của Nhân dân và mục tiêu tối hậu là giải phóng và phát triển con người. Đây là cơ sở lý luận nền tảng cho việc đổi mới phương thức phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong mô hình chính quyền đô thị hai cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của Nhân dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhân dân giữ vị trí trung tâm của toàn bộ quá trình cách mạng. Người khẳng định rõ: “Dân là gốc”, coi Nhân dân là lực lượng sáng tạo ra lịch sử và là nguồn sức mạnh quyết định sự tồn tại của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, mọi đường lối, chính sách và thiết chế quyền lực của nhà nước cách mạng đều phải bắt nguồn từ lợi ích, nguyện vọng và quyền lực của Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Dân là chủ”, còn “Chính quyền là đầy tớ của Nhân dân”. Quan niệm này xác định bản chất chính trị của nhà nước kiểu mới: quyền lực nhà nước chỉ có giá trị khi phản ánh đúng ý chí của Nhân dân và phục vụ Nhân dân một cách vô điều kiện.
Đối với Người, dân chủ không chỉ là một thiết chế chính trị mà còn là một phương thức phát triển. Người khẳng định: “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt ra kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương” [8]. Quyền làm chủ của Nhân dân phải được thực thi bằng những cơ chế rõ ràng và có khả năng kiểm chứng. Người đã khái quát thành quy trình dân chủ gồm 5 bước: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng. Đây là cơ chế chuyển hóa quyền lực từ tiềm năng thành hiện thực; bảo đảm rằng dân chủ không rơi vào hình thức, không trở thành khẩu hiệu. Từ tư tưởng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt yêu cầu nghiêm khắc đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên: phải “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và dựa vào dân”. Người nhấn mạnh: “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [7]. Do đó, người cán bộ muốn thực hành dân chủ và bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân thì phải gương mẫu về đạo đức, phong cách và phương pháp công tác; nếu xa dân, coi nhẹ dân thì tất yếu đánh mất nền tảng quyền lực của chính mình.
Tư tưởng trên là cơ sở lý luận quan trọng để Thành phố Hồ Chí Minh đổi mới phương thức phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong mô hình chính quyền đô thị hai cấp, bảo đảm dân chủ được vận hành sâu, thực chất và trực tiếp gắn với đời sống cộng đồng đô thị.
2.3. Phương pháp tiếp cận
Thứ nhất, tiếp cận duy vật biện chứng cho phép xem dân chủ như một quá trình vận động liên tục, luôn chịu sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội và đặc điểm quản trị đô thị. Trong bối cảnh Thành phố Hồ Chí Minh chuyển đổi mô hình chính quyền, dân chủ không phải là khuôn mẫu bất biến mà là sự điều chỉnh thường xuyên để phù hợp với mức độ phát triển của đời sống đô thị và yêu cầu phục vụ Nhân dân.
Thứ hai, tiếp cận duy vật lịch sử giúp đặt vấn đề dân chủ trong mối quan hệ giữa cấu trúc quyền lực nhà nước và nhu cầu thực tế của cư dân đô thị. Quyền làm chủ của Nhân dân chỉ có ý nghĩa khi nó gắn liền với năng lực đáp ứng lợi ích thiết thân, từ chất lượng dịch vụ công, hạ tầng đô thị đến tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của chính quyền.
Thứ ba, tiếp cận thiết chế trung gian khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò cầu nối chuyển hóa quyền lực giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Các thiết chế này không chỉ truyền tải nguyện vọng của người dân mà còn tạo cơ chế giám sát, đối thoại và đồng thuận, bảo đảm dân chủ được thực hành thực chất trong quản trị đô thị.
3. Thực tiễn phát huy quyền làm chủ của Nhân dân tại Thành phố
Hồ Chí Minh thời gian qua
3.1. Đối thoại giữa chính quyền và Nhân dân được mở rộng
Theo tinh thần Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, đối thoại giữa chính quyền và Nhân dân đã được nâng từ hình thức quản lý hành chính sang một thiết chế chính trị có tính bắt buộc thông qua Quy định số 1374-QĐ/TU của Ban Thường vụ Thành ủy [3]. Cơ chế này xác lập nguyên tắc người đứng đầu không chỉ tiếp nhận thông tin từ cơ sở mà phải chịu trách nhiệm trực tiếp giải trình và xử lý các vấn đề đặt ra bởi Nhân dân. Trong hơn hai năm thực hiện, Thành phố tiếp nhận 8.778 ý kiến phản ánh và xử lý hiệu quả 8.660 phản ánh, tương đương hơn 98 phần trăm phản hồi kịp thời. Bên cạnh đó, tổng số lượt tiếp dân đạt 23.895 lượt từ cấp Thành phố đến phường, phản ánh sự vận động mạnh mẽ của mô hình dân chủ tham dự [3]. Tuy vậy, trình độ và phương pháp đối thoại giữa các địa bàn không đồng đều, cho thấy hiệu quả đối thoại phụ thuộc lớn vào năng lực lắng nghe và bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ. Ở nhiều nơi, đối thoại thực chất đã trở thành công cụ giải quyết xung đột xã hội, hạn chế phát sinh điểm nóng. Song ở một số địa bàn khác, đối thoại vẫn mang tính chất nêu vấn đề mà chưa chuyển hóa thành quyết sách.
Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ nhất khẳng định hướng chuyển biến quan trọng: Nhân dân không chỉ trình bày nhu cầu mà trực tiếp tham gia kiến tạo chính sách. Việc thu nhận gần 30.000 ý kiến góp ý dự thảo văn kiện thông qua nền tảng số và phân tích bằng trí tuệ nhân tạo thể hiện sự chuyển dịch từ dân chủ tham gia sang dân chủ đồng kiến tạo [6]. Qua đó, đối thoại không còn là một sự nhượng bộ từ phía chính quyền mà trở thành một hình thức vận hành quyền lực công có cơ chế phản hồi hai chiều, nơi Nhân dân tham dự như chủ thể đồng sáng lập trật tự đô thị trong thời đại chuyển đổi số.
3.2. Cơ chế giám sát và phản biện xã hội được triển khai rộng rãi
Theo báo cáo tại Đại hội XI, Thành phố đã triển khai thực hiện giám sát và phản biện xã hội theo Quyết định 217-QĐ/TW và 218-QĐ/TW, tạo cơ sở để Nhân dân trực tiếp tham gia vào quá trình kiểm soát quyền lực nhà nước [4]. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đã tiến hành giám sát ở những lĩnh vực nhạy cảm như quy hoạch đô thị, thu chi cộng đồng, chất lượng cải cách hành chính và quản trị an sinh xã hội. Kết quả kỷ luật 328 đảng viên và 378 công chức, viên chức không chỉ cho thấy tác động kiểm soát quyền lực từ phía xã hội mà còn phản ánh sự dịch chuyển của dân chủ từ quyền nêu ý kiến sang quyền kiến tạo chuẩn mực đạo đức chính trị [3]. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy giám sát vẫn nghiêng về xử lý hậu quả, chưa đạt đến trình độ giám sát dự báo và tham gia thiết kế chính sách. Vai trò phản biện chính sách còn phụ thuộc vào năng lực phân tích khoa học, khả năng lập luận bằng chứng và sức mạnh liên kết xã hội của các thiết chế đại diện.
Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ nhất đặt ra bước phát triển mới: giám sát của Nhân dân không dừng ở kiểm soát hành vi mà chuyển sang giám sát phẩm chất và năng lực công vụ. Nhân dân không chỉ hỏi cán bộ đã làm gì, mà đặt ra câu hỏi tại sao làm như vậy, làm vì ai, và làm trên cơ sở đạo đức công nào [6]. Từ đó, cơ chế giám sát đã hình thành quyền lực kiểm tra từ bên ngoài hệ thống nhưng trong giai đoạn mới cần nâng cấp thành quyền lực kiến tạo chuẩn mực, nơi Nhân dân tham gia trực tiếp vào quá trình hình thành bản sắc đạo đức của nền công vụ đô thị.
3.3. Dân chủ cơ sở có bước chuyển nhưng chưa đồng đều
Đại hội XI khẳng định dân chủ cơ sở được thực hiện thông qua Hội nghị Nhân dân, Tổ dân phố và Ban Công tác Mặt trận, giúp giảm bớt xung đột lợi ích trong cộng đồng và nâng cao năng lực tự điều chỉnh xã hội của khu dân cư. Ở nhiều địa bàn, dân chủ được thực thi sinh động, người dân tham gia trực tiếp trong bàn bạc chỉnh trang hẻm, quy hoạch nhà ở, an sinh khu dân cư và bảo vệ môi trường sống. Tuy nhiên, vẫn tồn tại tình trạng dân chủ hình thức, nơi quy trình được đọc nhưng không được thảo luận, ý kiến được ghi nhận nhưng không tạo biến chuyển thực tế [3]. Một vấn đề đặc biệt nổi bật là tiếng nói của nhóm lao động nhập cư, sinh viên và người thuê trọ chưa được tích hợp đầy đủ vào hệ thống tham gia chính trị ở cơ sở, trong khi đây là nhóm đang tạo nên nhịp sống của đô thị lớn. Dân chủ khi không bao quát được các nhóm xã hội trọng yếu thì tính toàn vẹn của cộng đồng chính trị bị thu hẹp [2].
Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ nhất xác lập nguyên tắc mang ý nghĩa lý luận: dân chủ không chỉ là quyền phát ngôn mà phải đi kèm thụ hưởng. Thước đo hiệu quả dân chủ không phải số lượng ý kiến mà là mức độ cải thiện chất lượng cuộc sống [6]. Từ đó có thể thấy, dân chủ cơ sở tại Thành phố đang chuyển từ cơ chế chia sẻ thông tin sang cơ chế đồng kiểm soát và đồng xây dựng phúc lợi nhưng cần mở rộng đối tượng tham gia để dân chủ thực sự phản ánh cấu trúc xã hội đô thị đa tầng.
3.4. Hệ sinh thái dân chủ số hình thành nhưng chưa rộng
Theo đánh giá tại Đại hội XI, Thành phố đã xây dựng Kho dữ liệu dùng chung, Cổng tiếp nhận thông tin 1022, dịch vụ công trực tuyến và hệ thống đô thị thông minh giai đoạn đầu [4]. Những nền tảng này đã mở không gian tham gia chính trị từ địa điểm phường xã sang không gian số, nơi người dân có thể gửi phản ánh, theo dõi xử lý và kiểm tra tiến độ. Tuy nhiên, dữ liệu còn phân mảnh giữa các sở ngành, khiến nhiều quyết định quản trị chưa đạt trạng thái thời gian thực. Khoảng cách số giữa các nhóm dân cư dẫn đến bất bình đẳng quyền lực, khi người có khả năng công nghệ có tiếng nói mạnh hơn người ít điều kiện tiếp cận [5].
Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ nhất định hướng hình thành xã hội số, trong đó dân chủ số trở thành thiết chế tham gia mới. Lúc đó, quyền làm chủ không còn bị giới hạn bởi địa lý, thời gian hay hình thức tổ chức. Quyền lực chính trị được phân phối lại dựa trên khả năng tiếp cận và kiểm soát thông tin [6]. Qua đó, dân chủ số đã đặt những viên gạch đầu tiên cho hình thức dân chủ phi lãnh thổ của đô thị tương lai nhưng muốn trở thành hệ thống vững chắc cần hoàn thiện cấu trúc dữ liệu liên thông và chiến lược thu hẹp bất bình đẳng số.
4. Vấn đề đặt ra trong mô hình chính quyền đô thị hai cấp
Mô hình chính quyền đô thị hai cấp được triển khai nhằm tinh giản tầng nấc trung gian, tăng tốc độ điều hành và nâng cao hiệu lực quản lý đô thị. Tuy nhiên, mọi sự rút gọn về thiết chế quyền lực đều đặt ra yêu cầu tái thiết các cơ chế kiểm soát mới để bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân được thực thi thực chất. Dân chủ đô thị vì thế không phải là sự lặp lại hình thức dân chủ truyền thống mà là tiến trình tái cấu trúc tương quan giữa Nhà nước - Nhân dân - Xã hội trong điều kiện hiện đại hóa và truyền thông đa chiều.
4.1. Thiếu thiết chế đại diện ngang cấp và yêu cầu củng cố cơ chế kiểm soát quyền lực xã hội
Việc không tổ chức Hội đồng Nhân dân ở phường làm tăng tốc quá trình ra quyết định nhưng đồng thời làm suy giảm một kênh đại diện dân cử trực tiếp trong giám sát quyền lực. Theo Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, cơ chế kiểm soát quyền lực được điều chỉnh theo hướng mở rộng vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, coi đây là thiết chế chuyển hóa quyền lực giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Tuy nhiên, hiệu quả giám sát phụ thuộc lớn vào trình độ phản biện, năng lực phân tích và khả năng tạo “sức ép dư luận mang tính xây dựng” [6]. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là chuyển Nhân dân từ vị trí người quan sát sang chủ thể đồng giám sát và đồng tham gia định dạng chất lượng quyền lực.
4.2. Tốc độ ra quyết định nhanh đòi hỏi dân chủ phải vận hành theo thời gian thực
Siêu đô thị vận động với tốc độ nhanh đòi hỏi quyết sách kịp thời, đặc biệt trong giao thông, quy hoạch, môi trường, ứng phó biến động và cung ứng dịch vụ công. Theo Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ nhất, điều này chỉ có thể đảm bảo khi dân chủ được định hình trên nền tảng chính quyền số, dữ liệu số và năng lực phản hồi tức thời. Dân chủ không còn chỉ là quyền phát biểu sau quyết định mà là quyền tham dự trong tiến trình hình thành quyết định. Tuy nhiên, tốc độ càng cao thì nguy cơ dân chủ bị giản lược càng lớn nếu không kiến tạo không gian tranh luận chính sách công khai và tri thức hóa [6]. Do đó, dân chủ đô thị phải trở thành dân chủ dựa trên bằng chứng và dữ liệu, nơi ý chí tập thể được hình thành trên nền tảng thông tin minh bạch và đối thoại mở.
4.3. Đô thị hóa và di cư mạnh làm biến đổi nền tảng xã hội của dân chủ cơ sở
Thành phố Hồ Chí Minh có mức tăng dân số cơ học thuộc nhóm cao nhất cả nước, bình quân tăng hơn một triệu người mỗi chu kỳ 5 năm. Điều này làm đứt gãy cấu trúc cộng đồng truyền thống và thay thế bằng cộng đồng cư trú linh hoạt, đa dạng và biến động. Trong điều kiện đó, dân chủ không thể dựa trên cố kết văn hóa - huyết tộc mà phải dựa trên cố kết lợi ích đô thị, nơi quyền thụ hưởng dịch vụ công, cơ hội việc làm và chất lượng đời sống trở thành nền tảng đồng thuận chính trị. Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ nhất nhấn mạnh chuyển từ dân chủ “được nói” sang dân chủ “được thụ hưởng”, lấy mức độ hài lòng của Nhân dân làm chỉ số đánh giá hiệu quả hệ thống chính trị. Như vậy, dân chủ cơ sở phải được tái thiết theo hướng dân chủ phục vụ [6].
4.4. Truyền thông mạng xã hội đa chiều đặt ra yêu cầu minh bạch hóa và giải trình liên tục của chính quyền
Không gian truyền thông hiện nay là không gian đa trung tâm quyền lực, nơi thông tin không còn truyền từ trên xuống mà lan truyền theo mạng lưới ngang. Theo Đại hội XI, công tác dẫn dắt dư luận và phản bác thông tin sai lệch vẫn chưa tương xứng với tốc độ biến động của môi trường truyền thông số. Do đó, minh bạch không chỉ là yêu cầu đạo đức mà là điều kiện tồn tại của chính quyền đô thị. Xây dựng Kho dữ liệu dùng chung, các hệ thống tương tác như 1022, các nền tảng dịch vụ công trực tuyến chỉ mới là bước đầu [5]. Dân chủ số chỉ trở thành thực chất khi dữ liệu được công khai hóa, quyết định được truy vết được, và người dân có quyền tham gia giám sát theo thời gian thực.
5. Đổi mới phương thức phát huy quyền làm chủ của Nhân dân
5.1. Phát triển hệ sinh thái dân chủ số đô thị
Trong bối cảnh chính quyền đô thị vận hành trên nền tảng dữ liệu và quyết sách nhanh, quyền làm chủ của Nhân dân phải được mở rộng vào không gian số. Điều này đòi hỏi Thành phố xây dựng nền tảng tham gia chính sách trực tuyến cho người dân, bảo đảm người dân có thể truy cập, phản ánh, kiến nghị và góp ý vào tiến trình hoạch định chính sách theo thời gian thực. Hệ sinh thái dân chủ số không chỉ là một nền tảng kỹ thuật mà là cấu trúc kết nối dữ liệu giữa cơ quan nhà nước, cộng đồng dân cư và doanh nghiệp, qua đó hình thành bức tranh phản hồi xã hội đa chiều. Khi trí tuệ nhân tạo được triển khai để phân tích ý kiến công dân theo chủ đề, mô hình tranh luận công sẽ được nâng lên từ mức độ cảm tính sang mức độ lý tính dựa trên chứng cứ. Như vậy, dân chủ số không thay thế dân chủ truyền thống mà làm cho quyền tham gia của Nhân dân trở nên liên tục, tức thời và có khả năng tác động trực tiếp đến chính sách đô thị.
5.2. Mở rộng mô hình đối thoại chính sách mở
Đối thoại giữa chính quyền và Nhân dân trong giai đoạn mới không thể dừng lại ở tiếp nhận và giải quyết kiến nghị mà phải trở thành một thiết chế đồng kiến tạo chính sách. Điều quan trọng là đối thoại phải có chủ đề rõ ràng, có lộ trình giải quyết cụ thể và có cơ chế công khai tiến độ thực hiện. Mỗi buổi đối thoại chính sách phải được xem như một vòng vận động của ý chí cộng đồng, trong đó chính quyền minh bạch hoá thông tin, người dân trình bày tri thức trải nghiệm của đời sống đô thị, và các tổ chức trung gian làm nhiệm vụ lý giải, tổng hợp và đề xuất phương án điều chỉnh. Khi tiến độ xử lý được công bố công khai trên nền tảng số để Nhân dân giám sát, đối thoại không chỉ là lời hứa mà trở thành một chức năng kiểm soát quyền lực trong cấu trúc chính trị đô thị.
5.3. Tăng cường vai trò điều phối xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Trong cấu trúc chính quyền đô thị hai cấp, Mặt trận Tổ quốc không chỉ giữ vai trò đại diện lợi ích Nhân dân mà còn đóng vai trò điều hòa các mối quan hệ xã hội và kết nối các nhóm lợi ích khác nhau trong đời sống đô thị. Mặt trận phải được tăng cường năng lực thiết kế không gian thảo luận chính sách, tổ chức diễn đàn xã hội công dân, tạo môi trường tranh luận mang tính xây dựng và xử lý khác biệt xã hội bằng phương thức đối thoại thay vì xung đột. Khi Mặt trận vận hành như một thiết chế trung gian gắn kết Đảng - Nhà nước - Nhân dân, quyền dân chủ không chỉ được thực thi mà còn được soi sáng, định hướng và lan tỏa trong cộng đồng.
5.4. Phát triển mô hình cộng đồng tự quản đô thị
Trong môi trường đô thị hóa nhanh và cư trú biến động, các thiết chế tự quản tại chung cư, khu dân cư, tổ dân phố đóng vai trò nền tảng trong duy trì trật tự xã hội, kết nối cộng đồng và hình thành đồng thuận xã hội. Thành phố cần củng cố và trao quyền thực chất cho các cộng đồng này, đặc biệt trong việc giám sát dịch vụ công, quản lý hạ tầng và tham gia vào quyết định ngân sách địa phương. Khi một phần ngân sách được phân bổ theo cơ chế phân quyền tham gia, người dân trở thành chủ thể trực tiếp lựa chọn ưu tiên phát triển, từ đó dân chủ được chuyển hóa thành năng lực định hình tương lai chung.
5.5. Nâng cao năng lực cán bộ cấp cơ sở
Trong mô hình chính quyền đô thị mới, cán bộ phường không còn chỉ thực hiện tác nghiệp hành chính mà phải là người điều phối xã hội, dẫn dắt đối thoại cộng đồng và xử lý xung đột lợi ích cư trú. Điều đó đòi hỏi năng lực giao tiếp công vụ, tư duy dữ liệu, khả năng phân tích tình huống đô thị và bản lĩnh giải quyết vấn đề. Việc đào tạo cán bộ phải chuyển từ đào tạo chức năng sang đào tạo năng lực thực hành dân chủ, trong đó đạo đức công vụ và kỹ năng điều hành tương tác giữ vai trò trung tâm. Khi cán bộ cơ sở có năng lực kiến tạo thay vì quản lý, dân chủ sẽ trở thành lực sống của đô thị, chứ không chỉ là khẩu hiệu.
6. Kết luận
Đổi mới phương thức phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong mô hình chính quyền đô thị hai cấp là yêu cầu mang tính chiến lược, gắn với định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển đô thị bền vững. Bản chất của dân chủ XHCN ở Thành phố Hồ Chí Minh phải được biểu hiện trong cả thể chế, văn hóa, chính trị và năng lực tham gia của cộng đồng dân cư. Dân chủ không chỉ dừng lại ở cơ chế tham vấn hay lấy ý kiến hình thức mà phải trở thành thực hành thường nhật, trở thành trình độ tự quản và năng lực kiến tạo không gian sống của người dân đô thị. Điều này đòi hỏi Nhà nước chuyển từ quản lý đơn tuyến sang quản trị đa trung tâm, từ mệnh lệnh hành chính sang phối hợp đồng kiến tạo, đồng thời, đặt Nhân dân vào vị trí chủ thể của phát triển.
Khi quyền làm chủ được bảo đảm thực chất, niềm tin chính trị được củng cố, sự đồng thuận xã hội được nâng cao, hệ thống chính trị sẽ tăng năng lực hấp thụ đổi mới và thích ứng trước các thách thức của thời kỳ chuyển đổi. Đây là nền tảng để Thành phố Hồ Chí Minh phát triển theo hướng văn minh, hiện đại, nhân văn, đồng thời duy trì ổn định chính trị - xã hội trong quá trình hội nhập sâu rộng. Phát huy quyền làm chủ của Nhân dân vì thế không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực nội sinh quan trọng hàng đầu của tăng trưởng đô thị bền vững.
_______________
Tài liệu tham khảo
[1] C.Mác và Ph.Angghen Toàn tập (tập 1, 2000). Toàn tập. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 466.
[2] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2020). Báo cáo tóm tắt dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khóa X (do đồng chí Nguyễn Thành Phong, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố, báo cáo tại phiên Khai mạc Đại hội ngày 15/10/2020).
[3] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh. (2020). Diễn văn khai mạc Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, nhiệm kỳ 20202-2025 (do đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh khóa X, trình bày sáng ngày 15/10/2020).
[4] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2020). Nâng cao trách nhiệm nêu gương và năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, xứng đáng với niềm của Nhân dân; phát huy truyền thống đoàn kết, năng động, sáng tạo, nghĩa tình; huy động hiệu quả mọi nguồn lực, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, tận dụng thời cơ cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tăng cường hội nhập quốc tế; đảm bảo quốc phòng - an ninh; phát triển nhanh, bền vững, vì cả nước, cùng cả nước, vì hạnh phúc của Nhân dân (Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa X tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025).
[5] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2020). Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025. Nguồn: https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-dang-bo-thanh-pho-ho-chi-minh-lan-thu-xi-nhiem-ky-2020-2025-1491870713, ngày 18/10/2020.
[6] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2025). Bế mạc Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Nguồn: https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/be-mac-dai-hoi-dai-bieu-dang-bo-thanh-pho-ho-chi-minh-nhiem-ky-2025-2030-1491939588, ngày 15/10/2025.
[7] Hồ Chí Minh Toàn tập (tập 5, 2002). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
tr. 269-273.
[8] Hồ Chí Minh Toàn tập (tập 6, 2011). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 233.
[9] Quốc hội (2020). Nghị quyết số 131/2020/QH14, ngày 16/11/2020 Tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh.
[10] Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2020). Nghị quyết số 1111/NQ-UBTVQH14, ngày 9/12/2020 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thành lập thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh,
[11] V.I.Lênin Toàn tập (tập 6, 1975). Toàn tập. NXB Tiến bộ, Matxcơva, tr. 30.