Chu Thị Thu Hương
Phó Chánh án Toà án Khu vực 9 - Hải Phòng
Nguyễn Văn Toàn
NCS Đại học Luật, Đại học Huế
Abstract
Completing the legal framework for land dispute mediation according to the provisions of the Mediation and Dialogue Law at the Court aims to clarify both theoretical issues and the content of legal regulations on land dispute mediation as stipulated by the current Mediation and Dialogue Law at the Court. Consequently, the regulations on land dispute mediation under the Mediation and Dialogue Law at the Court have revealed some shortcomings and limitations, resulting in the implementation of land dispute resolution regulations under the Mediation and Dialogue Law at the Court not achieving high effectiveness in accordance with the spirit of the law.
Keywords: Law, mediation, dialogue, disputes, land disputes.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh kinh tế – xã hội phát triển mạnh mẽ, số lượng các vụ tranh chấp phát sinh ngày càng tăng, đặc biệt là các tranh chấp liên quan đến đất đai với tính chất ngày càng phức tạp và khó giải quyết từ đó đặt ra một thách thức lớn cho hệ thống Toà án. Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020 bắt đầu có hiệu lực vào ngày 01/01/2021 đã và đang từng bước thể hiện vai trò là một trong những giải pháp trọng tâm, hiệu quả nhằm giảm áp lực cho hoạt động xét xử, rút ngắn thời gian giải quyết vụ việc, đồng thời tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả công tác tư pháp và góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Bên cạnh đó, Luật Đất đai năm 2024 đi vào thực tiễn cuộc sống xác định việc Hòa giải tranh chấp đất đai tại Tòa án được thực hiện theo quy định của pháp luật về hòa giải, đối thoại tại Tòa án và pháp luật về tố tụng dân sự. Thủ tục hòa giải tại Tòa án áp dụng đối với các tranh chấp đất đai được các bên tranh chấp có yêu cầu khởi kiện tại Tòa án, thực hiện theo quy định của pháp luật về hòa giải, đối thoại tại Tòa án (trước khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự) và pháp luật về tố tụng dân sự (từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự).
Điều đó cho thấy Nhà nước đặc biệt quan tâm giải quyết tranh chấp đất đai bằng hình thức hòa giải. Giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định của Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án đóng vai trò rất quan trọng trong giải quyết tranh chấp và giảm áp lực lên hệ thống Toà án. Tuy nhiên, công tác hòa giải tranh chấp đất đai theo quy định của Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án hiện hành vẫn còn nhiều vấn đề gây khó khăn trong quá trình áp dụng từ đó chưa mang lại hiệu quả cao theo tinh thần của pháp luật.
2. Thực trạng pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại Toà án theo luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án
2.1. Quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại Toà án theo Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án
2.1.1. Tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết hòa giải tranh chấp đất đai
Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án [1] thì hòa giải tại Tòa án là hoạt động hòa giải do Hòa giải viên tiến hành trước khi Tòa án thụ lý vụ việc dân sự, nhằm hỗ trợ các bên tham gia hòa giải thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự theo quy định.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 235 Luật Đất đai năm 2024 [2] thì hòa giải tranh chấp đất đai tại Tòa án được thực hiện theo quy định của pháp luật về hòa giải, đối thoại tại Tòa án và pháp luật về tố tụng dân sự. Cơ sở tiến hành hoà giải tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về hoà giải, đối thoại tại Toà án được quy định tại Điều 16 và được hướng dẫn cụ thể tại Điều 2 Thông tư 03/2020/TT – TANDTC ngày 16/11/2020 quy định chi tiết về trình tự nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại tòa án và chỉ định hòa giải viên (gọi tắt là Thông tư 03) [3] thì các bên tranh chấp phải có đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.
2.1.2. Xử lý đơn yêu cầu
Khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai Toà án sẽ tiến hành thực hiện các thủ tục tiếp theo theo quy định tại Điều 16 Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án [1] bao gồm:
- Xác định tranh chấp đất đai mà người khởi kiện, người yêu cầu nộp đơn không thuộc các trường hợp không tiến hành hoà giải tại Toà án theo quy định của pháp luật;
- Tòa án thông báo bằng văn bản cho người khởi kiện, người yêu cầu biết về quyền được lựa chọn hòa giải, đối thoại và lựa chọn Hòa giải viên theo quy định;
- Phân công thẩm phán phụ trách hoà giải, đối thoại;
- Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại chỉ định Hòa giải viên theo quy định tại Điều 17 của Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án trong trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu đồng ý hòa giải, đối thoại theo quy định hoặc trường hợp họ không trả lời Tòa án khi hết thời hạn theo quy định;
- Tòa án thông báo bằng văn bản về việc chuyển vụ việc sang hòa giải, đối thoại và văn bản chỉ định Hòa giải viên cho Hòa giải viên, người khởi kiện, người yêu cầu, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
2.1.3. Chỉ định Hoà giải viên
Theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 17 Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án [1] Thẩm phán được phân công phụ trách hoà giải, đối thoại có thể chỉ định Hoà giải viên theo hai cách:
Một là, Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại của Tòa án nơi giải quyết vụ việc chỉ định Hòa giải viên theo sự lựa chọn của người khởi kiện, người yêu cầu;
Hai là, thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại của Tòa án nơi giải quyết vụ việc tự mình chỉ định Hòa giải viên. Bên cạnh đó, việc chỉ định Hòa giải viên phải căn cứ vào tính chất của từng vụ việc; trường hợp vụ việc có liên quan đến người dưới 18 tuổi thì Thẩm phán chỉ định Hòa giải viên có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm lý của người dưới 18 tuổi.
2.1.4. Tiến hành hoà giải
Theo điểm a khoản 8 Điều 16 Luật Hòa giải, đối thoại tại Toà án [1] trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án quy định về việc chuyển vụ việc sang hòa giải, đối thoại và văn bản chỉ định Hòa giải viên cho Hòa giải viên, người khởi kiện, người yêu cầu, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.Trường hợp Hòa giải viên được lựa chọn thuộc danh sách Hòa giải viên của Tòa án nhân dân cấp huyện khác thì văn bản chỉ định Hòa giải viên phải được gửi cho Tòa án đó. Người bị kiện phải trả lời bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác về việc đồng ý hoặc không đồng ý tiến hành hòa giải, đối thoại. Hết thời hạn này mà người bị kiện đồng ý hòa giải, đối thoại hoặc không trả lời Tòa án thì Hòa giải viên tiến hành hòa giải.
2.2. Thành phần phiên hòa giải tranh chấp đất đai
Tại Điều 25 Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án [1] quy định thành phần tham gia phiên hoà giải bao gồm: Hoà giải viên; Các bên, người đại diện, người phiên dịch; Người được mời tham gia hoà giải trong trường hợp cần thiết. Với các thành phần trong Hội đồng hòa giải quy định như trên thể hiện gồm có thành phần “cứng” và thành phần “mềm”. Thành phần “cứng” là bắt buộc phải có trong Hội đồng hòa giải như: Hoà giải viên, các bên, người đại diện, trường hợp thiếu một trong các thành phần này xem như thành phần hòa giải không đảm bảo, không đủ điều kiện để tiến hành hòa giải. Thành phần “mềm” là thành phần tùy vào trường hợp cụ thể có thể tham gia phiên hoà giải như: người phiên dịch, người được mời tham gia hoà giải nếu xét thấy cần thiết.
2.3. Giá trị kết quả hòa giải tranh chấp đất đai tại Toà án theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án
2.3.1. Hòa giải thành
Theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án [1] thì hòa giải thành được hiểu là thông qua hòa giải, các bên tham gia hòa giải tự nguyện thỏa thuận về việc giải quyết toàn bộ hoặc một phần vụ việc dân sự mà phần này không liên quan đến những phần khác của vụ việc dân sự đó. Đây là kết quả các bên tranh chấp trong tất cả các quan hệ tranh chấp nói chung và tranh chấp đất đai nói riêng mong muốn đạt được. Hòa giải viên sẽ tiến hành mở phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải và lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải. Đến đây, việc hòa giải, đối thoại của các bên xem như hoàn tất. Khi các bên đạt được sự thỏa thuận, thống nhất với nhau về việc giải quyết toàn bộ hoặc một phần vụ việc tranh chấp đất đai thì Hòa giải viên ấn định thời gian, địa điểm mở phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại.
Phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại có thể được tổ chức ngay sau phiên hòa giải, đối thoại hoặc vào thời gian phù hợp khác. Hòa giải viên tiến hành phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại tại trụ sở Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc. Trước khi tiến hành phiên họp ghi nhận kết quả hoà giải Hòa giải viên phải thông báo cho những người quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án [1] bao gồm: Hòa giải viên; Các bên, người đại diện, người phiên dịch;Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại hoặc Thẩm phán khác do Chánh án Tòa án phân công (sau đây gọi chung là Thẩm phán tham gia phiên họp).
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 32 Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án [1] quy định trong trường hợp các bên có yêu cầu ra quyết định công nhận kết quả hoà giải thành thì sau khi lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả đối thoại, Hòa giải viên chuyển biên bản cùng tài liệu kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc tranh chấp đất đai để ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành. Trường hợp đủ điều kiện theo quy định thì Thẩm phán ra quyết định công nhận kết quả hoà giải thành; Trường hợp không có đủ điều kiện quy định thì Thẩm phán ra quyết định không công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành và nêu rõ lý do. Thẩm phán chuyển quyết định, biên bản và tài liệu kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật về tố tụng.
2.3.2. Hòa giải không thành và chấm dứt hoà giải
Các trường hợp hoà giải tranh chấp đất đai không thành và chấm dứt hoà giải thường gặp như sau:
- Các bên không đạt được thỏa thuận, thống nhất về toàn bộ nội dung tranh chấp đất đai;
- Các bên chỉ thỏa thuận, thống nhất được một phần nội dung tranh chấp đất đai nhưng phần đó có liên quan đến những phần khác của vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính;
- Một bên hoặc các bên không đồng ý tiếp tục hòa giải, đối thoại;
- Một bên hoặc các bên vắng mặt sau 02 lần được thông báo hợp lệ về việc hòa giải;
- Trong quá trình hòa giải, đối thoại phát hiện vụ việc thuộc trường hợp không tiến hành hoà giải, đối thoại tại Toà án;
- Một trong các bên yêu cầu áp dụng biện pháp Khẩn cấp tạm thời theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Người nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu rút đơn khởi kiện; đơn yêu cầu.
3. Những hạn chế, vướng mắc
Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án năm 2020 sau gần 05 năm đi vào áp dụng kể từ ngày 01/01/2021 chưa thực sự phổ biến. Mặc dù số lượng vụ án tranh chấp dân sự nói chung và tranh chấp đất đai nói riêng được tiến hành hoà giải theo thủ tục hòa giải tại Toà án có xu hướng tăng và chuyển biến tích cực, song vẫn còn nhiều vụ án phức tạp, tranh chấp gay gắt điển hình như tranh chấp đất đai chưa thực sự mang lại hiệu quả cao cũng như chưa giải quyết triệt để được mâu thuẫn của các bên trong tranh chấp. Đồng thời, chưa phát huy tối đa vai trò làm giảm áp lực lên hệ thống Toà án của Luật Hoà giải, đối thoại năm 2020.
Về việc phối hợp giữa các bộ phận chuyên môn trong hệ thống Toà án và Hoà giải viên chưa thực sự nhịp nhàng và chặt chẽ, đặc biệt là trong khâu sắp xếp lịch hòa giải, thông báo triệu tập đương sự và xử lý hồ sơ sau khi hòa giải không thành. Do đó, tình trạng này làm ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ và chất lượng giải quyết các vụ việc.
Quy định về hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai vẫn chưa rõ ràng, tranh chấp đất đai phát sinh nhiều tình huống trên thực tế. Có 02 hình thức hòa giải tranh chấp đất đai thường thấy gồm: Hòa giải ngoài tố tụng và hòa giải trong tố tụng, có những tranh chấp đất đai bắt buộc phải hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nhưng những nơi không có cấp xã thì chưa thấy hướng dẫn về thẩm quyền hòa giải điều này cũng tác động trực tiếp đến hoạt động hoà giải tranh chấp đất đai theo thủ tục Hoà giải tại Toà án. Bởi lẽ, trong Giải đáp số 01/2021/GĐ- TANDTC ngày 01/7/2021 giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ về hoà giải, đối thoại tại Toà án [4] có nội dung giải đáp cho câu hỏi “Tranh chấp đất đai mà chưa qua thủ tục hòa giải ở xã, phường thì có được xem xét để hòa giải theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án không?” cụ thể như sau “Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì hòa giải theo quy định của Luật này được thực hiện đối với những tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án có thẩm quyền giải quyết đối với tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành theo quy định tại Điều 203 của Luật Đất đai [5], được hướng dẫn tại khoản 2 Điều 3 của Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05-5-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao[6] hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 [7] về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án. Như vậy, đối với những tranh chấp về quyền sử dụng đất và tranh chấp ranh giới thửa đất mà chưa qua thủ tục hòa giải ở xã, phường thì không được hòa giải theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án vì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.”. Từ thực trạng trên có thể thấy những tranh chấp đất đai bắt buộc phải hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nhưng những nơi không có cấp xã thì chưa được hướng dẫn cụ thể dẫn đến việc khó xác định tranh chấp đất đai này có thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án không và có được hoà giải tranh chấp theo quy định của Luật hoà giải, đối thoại không. Song song đó, Luật Đất đai năm 2024 đã áp dụng vào thực tiễn cuộc sống nhưng chưa có bất kì văn bản nào hướng dẫn áp dụng Luật Hoà giải, đối thoại năm 2020 theo tinh thần Luật đất đai năm 2024.
Từ những hạn chế nêu trên phát sinh một số vướng mắc khi hoà giải tranh chấp đất đai theo Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án cụ thể như sau:
Một là, vướng mắc khi xác định những người được mời tham gia hoà giải trong trường hợp cần thiết.
Hai là, vướng mắc liên quan đến phiên họp ghi nhận kết quả hoà giải thành.
Ba là, vướng mắc liên quan đến chế tài thực thi đối với kết quả hoà giải tranh chấp đất đai thành trong trường hợp các bên không có yêu cầu ra quyết định công nhận kết quả.
Bốn là, hạn chế về áp dụng quy định của pháp luật trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về đất đai.
4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại Toà án theo Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án
Hòa giải tranh chấp đất đai tại Toà án theo Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án về lý luận và thực tiễn đều thể hiện ý nghĩa vô cùng to lớn nhằm giảm áp lực cho hệ thống Toà án ở phương diện hoạt động xét xử, rút ngắn thời gian giải quyết vụ việc, đồng thời tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả công tác tư pháp và góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Hòa giải, đối thoại không chỉ giúp các bên đương sự chủ động, tự nguyện giải quyết được mâu thuẫn trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng mà còn góp phần xây dựng môi trường pháp lý ổn định. Hòa giải tranh chấp đất đai tại Toà án theo Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án là một chế định mới được cập nhật thể hiện rõ sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước đến hoạt động hoà giải tranh chấp đất đai. Với vai trò vô cùng quan trọng của Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án nói chung và hoạt động hoà giải tranh chấp đất đai tại Toà án theo Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án nói riêng rất cần giải pháp nhằm khắc phục những vướng mắc và nâng cao hiệu quả của hoạt động hoà giải tranh chấp đất đai tại Toà án.
4.1. Tăng cường công tác phổ biến và giáo dục pháp luật về hoà giải, đối thoại tại Toà án đặc biệt là hoà giải tranh chấp đất đai. Song song đó, cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể về người được mời tham gia hoà giải trong trường hợp cần thiết để có căn cứ xác định việc tiến hành hoà giải đúng quy định và tránh trường hợp không thống nhất trong cách hiểu cũng như cách áp dụng quy định pháp luật vào hoạt động hoà giải tranh chấp đất đai tại Toà án.
4.2. Đối với phiên họp ghi nhận kết quả hoà giải thành. Phiên họp này so với phiên hoà giải có thêm sự tham gia của Thẩm phán phụ trách hoà giải hoặc Thẩm phán khác do Chánh án Toà án phân công (gọi chung là Thẩm phán tham gia phiên họp). Cần bổ sung quy định trong trường hợp tại phiên họp ghi nhận kết quả hoà giải thành các bên tham gia có thay đổi ý kiến thì Hoà giải viên hay Thẩm phán tham gia phiên họp có quyền quyết định hay đưa ra ý kiến trong vấn đề này để thuận tiện cho việc công nhận kết quả hoà giải thành khi đương sự có yêu cầu Toà án ra quyết định công nhận.
4.3. Cần quy định chế tài bắt buộc thực thi đối với kết quả hòa giải thành ghi trong biên bản ghi nhận kết quả hoà giải. Đối với trường hợp tranh chấp đất đai đã được tổ chức và có kết quả hòa giải thành thì cần quy định một khoảng thời gian khoảng thời gian hợp lý chẳng hạn như các bên có quyền cho ý kiến về việc thay đổi kết quả trong biên bản ghi nhận kết quả hoà giải trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày hoà giải. Sau thời gian này, các bên không có ý kiến gì khác thì kết quả ghi trong biên bản ghi nhận kết quả hòa giải sẽ có giá trị bắt buộc với các bên, nếu các bên không thực thi kết quả hòa giải thành và dẫn đến gây ảnh hưởng tiêu cực đến bên còn lại, thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Việc quy định cơ chế bắt buộc đối với kết quả hòa giải thành ghi trong biên bản ghi nhận kết quả hoà giải sẽ giúp bảo đảm được quyền và lợi ích chính đáng của các bên, Đồng thời, giúp nâng cao giá trị pháp lý của các quyết định của cơ quan nhà nước, tạo được lòng tin của nhân dân vào năng lực của cơ quan nhà nước trong việc giải quyết tranh chấp đất đai nói riêng và tranh chấp dân sự nói chung.
4.4. Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể và chi tiết cho những tranh chấp đất đai bắt buộc phải hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Đồng thời, Luật Hoà giải, đối thoại năm 2020 cần cập nhật hướng dẫn trong hoà giải tranh chấp đất đai cho nhất quán với quy định Luật đất đai năm 2024.
5. Kết luận
Qua quá trình phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về hoà giải tranh chấp đất đai tại Toà án tác giả nêu ra những thiếu sót, hạn chế và bất cập của pháp luật để đưa ra những kiến nghị, vấn đề cần bổ sung, sửa đổi: về xác định những người được mời tham gia hoà giải trong trường hợp cần thiết; về phiên họp ghi nhận kết quả hoà giải thành; về chế tài thực thi đối với kết quả hoà giải tranh chấp đất đai thành trong trường hợp các bên không có yêu cầu ra quyết định công nhận kết quả; về áp dụng quy định của pháp luật trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về đất đai. Từ đó, tác giả đề xuất những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết hòa giải tranh chấp đất đai tại Toà án như: Giải quyết về công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật; bổ sung quy định về thẩm quyền của Hoà giải viên và Thẩm phán tại phiên họp ghi nhận kết quả hoà giải; bổ sung quy định về chế tài thực thi đối với kết quả hoà giải tranh chấp đất đai thành trong trường hợp các bên không có yêu cầu Toà án ra quyết định công nhận kết quả; bổ sung văn bản hướng dẫn cụ thể và chi tiết cho những tranh chấp đất đai bắt buộc phải hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã và Luật Hoà giải, đối thoại năm 2020 cần cập nhật hướng dẫn trong hoà giải tranh chấp đất đai cho nhất quán với tinh thần Luật đất đai năm 2024.
_________________________
Tài liệu tham khảo
[1] Quốc hội (2020), Luật Hoà giải, đối thoại tại Toà án, Luật số 58/2020/QH14, ngày 16/6/2020.
[2] Quốc hội (2024), Luật Đất đai, Luật số 31/2024/QH15, ngày 18/01/2024.
[3] Toà án nhân dân tối cao (2020), Thông tư 03/2020/TT – TANDTC ngày 16/11/2020 quy định chi tiết về trình tự nhận, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại tòa án và chỉ định hòa giải viên.
[4] Toà án nhân dân tối cao (2021), Giải đáp số 01/2021/GĐ- TANDTC ngày 01/7/2021 giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ về hoà giải, đối thoại tại Toà án.
[5] Quốc hội (2013), Luật Đất đai, Luật số 45/2013/QH13, ngày 29/11/2023.
[6] Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (2017), Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05-5-2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án.
[7] Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 ngày 25/11/2015.