Đăng nhập

Top Panel
Trang nhấtGiáo dụcNHẬN DIỆN SỚM NHỮNG BIỂU HIỆN VỀ KHẢ NĂNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH TÂM LÝ HỌC

NHẬN DIỆN SỚM NHỮNG BIỂU HIỆN VỀ KHẢ NĂNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH TÂM LÝ HỌC

Thứ sáu, 22 Tháng 8 2025 17:11
Bài đăng trên Tạp chí Giáo dục và Xã hội Số 173 (234), Tháng 8/2025 (kì 1).

NCS LÊ THỊ THẢO NGUYÊN 

Khoa Sư phạm, Trường Đại học Tây Nguyên

Nhận bài ngày 03/7/2025. Sửa chữa xong 15/8/2025. Duyệt đăng 16/8/2025.

Abstract

This article presents the development and implementation of a measurement tool to assess early indicators of scientific research competence among first- and second-year Psychology major students, based on criteria proposed by lecturers. The results indicate that the scale demonstrates fairly good reliability in measuring early research competence. Most students fall within the emerging and potential levels. Notably, a gender-based difference was identified in these early indicators.

Keywords: Scientific research competence, potential, early indicators, Psychology students.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh đổi mới giáo dục đại học hiện nay, khả năng nghiên cứu khoa học (NCKH) được xem là một trong những tiêu chí quan trọng đánh giá chất lượng đào tạo sinh viên (SV) khối ngành Khoa học xã hội và nhân văn. Đặc biệt với SV ngành Tâm lý học, khả năng NCKH không chỉ giúp SV tiếp cận tri thức mới một cách khoa học mà còn hình thành tư duy phản biện, khả năng phân tích và tổng hợp thông tin [1, tr. 74]. Tuy nhiên, thực tiễn đào tạo cho thấy nhiều SV chỉ bắt đầu rèn luyện khả năng NCKH ởnhững học kỳ cuối, khi thực hiện khóa luận tốt nghiệp [2, tr. 128]. Điều này dẫn tới việc SV cảm thấy khó khăn khi thực hiện yêu cầu của nghề nghiệp cần ứng dụng khả năng NCKH về chuyên ngành của SV [3, tr. 189], [4, tr. 58].

Học tập ở bậc đại học là một quá trình đặc thù, trong đó hoạt động học luôn gắn liền với nghiên cứu chuyên môn. Bên cạnh yêu cầu về phương pháp tự học, khả năng NCKH được xem là chỉ báo quan trọng phản ánh tiềm năng nghiên cứu của SV trong quá trình học tập. Việc nhận diện sớm những biểu hiện của khả năng NCKH ngay từ sớm  ý nghĩa thiết yếu, bởi đây   sở để nhà trường, khoa, bộmôn chuyên ngành và giảng viên (GV) chủ động xây dựng kế hoạch hỗ trợ, bồi dưỡng phù hợp nhằm phát hiện, hình thành nền tảng kỹ năng nghiên cứu vững chắc cho các SV tiềm năng. Trong bối cảnh NCKH đã trở thành một phong trào rộng rãi của SV hiện nay, bài viết này không nhằm khuyến khích việc chạy theo phong trào mà tập trung làm rõ khái niệm, các nhóm kỹ năng NCKH cơ bản và những biểu hiện ban đầu có thể nhận diện sớm những SV tiềm năng về NCKH trong chuyên ngành Tâm lý học.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Khái niệm cơ sở

Hoạt động NCKH của SV là quá trình SV chủ động vận dụng kiến thức, phương pháp nghiên cứu đã được bồi đắp thông qua các học phần phương pháp NCKH để phát hiện, phân tích và giải quyết các vấn đề liên quan đến các hoạt động viết báo cáo kết thúc học phần, thực hành, thực tập, báo cáo NCKH cấp trường, khóa luận tốt nghiệp [1, tr. 74]. Thông qua hoạt động NCKH, SV được hình thành năng lực học thuật và nâng cao chất lượng đào tạo đại học. Hoạt động NCKH của SV là một bộ phận quan trọng trong quá trình đào tạo đại học, góp phần hình thành và phát triển năng lực học thuật, tư duy phản biện và khảnăng chuyên mônKhác với hoạt động học tập thụ động, hoạt động NCKH đòi hỏi SV phải chủ động phát hiện vấn đề, đề xuất giải pháp và vận dụng phương pháp nghiên cứu để kiểm chứng giả thuyết. Thông qua việc tham gia vào các đề tài nghiên cứu của SV, thực hiện các bài tập nghiên cứu nhỏ, viết tiểu luận, tham gia hội thảo hoặc thực hiện khóa luận, SV dần rèn luyện được khả năng tìm kiếm, xử lý thông tin, phân tích và tổng hợp dữ liệu một cách khoa học. Đặc biệt, với SV ngành Tâm lý học, hoạt động này giúp các em hình thành kỹ năng quan sát, phỏng vấn, thu thập thông tin và áp dụng các phương pháp nghiên cứu định tính, định lượng để giải thích hiện tượng tâm lý trong đời sống. Nhờ đó, hoạt động NCKH vừa là môi trường thực hành, vừa là tiền đề quan trọng để nâng cao năng lực nghề nghiệp và chuẩn bị cho các nghiên cứu chuyên sâu sau này.

Kỹ năng NCKH của SV được hiểu là một quá trình tập dượt thể hiện sự vận dụng kiến thức, phương pháp và thái độ khoa học để khám phá và giải quyết vấn đề liên quan đến nhiệm vụ học tập gắn liền với nghề nghiệp của SV [1, tr.74]. Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng khả năng này bao gồm nhiều thành phần, trong đó  khả năng nhận diện vấn đề, tìm kiếm và tổng quan tài liệu, thiết kế nghiên cứu, thu thập và phân tích dữ liệu cũng như trình bày kết quả nghiên cứu. Đối với SV ngành Tâm lý học, khả năng NCKH vừa mang tính hàn lâm vừa mang tính ứng dụng, bởi nó gắn liền với việc quan sát, phân tích các hiện tượng tâm lý trong thực tiễn. Một số công trình nghiên cứu đã nhấn mạnh việc rèn luyện khả năng NCKH cần được bắt đầu từ giai đoạn sớm của quá trình đào tạo đại học. Ở giai đoạn này, các biểu hiện khả năng thường ở mức sơ khởi, chưa hoàn thiện nhưng là tiền đề để phát triển các năng lực nghiên cứu chuyên sâu ở các học kỳ sau.

2.2. Phương pháp và nội dung nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu chính của đề tài là khảo sát bằng bảng hỏi kết hợp phỏng vấn chuyên gia. Các bài tập đo nghiệm được xây dựng dựa trên các biểu hiện về nhận thức vai tròtầm quan trọng của khả năng NCKH, thái độ của SV đối với hoạt động NCKH, tâm thế sẵn sàng tham gia các hoạt động NCKH. Mẫu khảo sát gồm 32 SV chuyên ngành Tâm  học được GV từng giảng dạy đề xuất có tiềm năng trong hoạt động NCKH đang theo học tại các trường đại học khu vực Tây Nguyên. Ngoài ra, chúng tôi còn thực hiện phỏng vấn 5 GV đang giảng dạy chuyên ngành và 5 SV tham gia khảo sát để làm sáng tỏ các dấu hiệu biểu hiện của khả năng NCKH.

Độ tin cậy của bảng hỏi được chúng tôi sử dụng công thức của Cronback Alpha với hệ số a = 0.72 tương ứng ở mức khá.

Những SV được giới thiệu chủ yếu là SV năm thứ nhất hoặc năm thứ hai chuyên ngành Tâm lý học. SV được nhận lời mời khảo sát thông qua sự giới thiệu của GV đã từng giảng dạy. Một bảng hỏi được thiết kế đo nghiệm gồm 32 items được tính sang điểm trung bình (ĐTB) và được quy đổi thành ba mức: tiềm tàng (ĐTB từ 1 đến 1.4), tiềm năng (ĐTB từ 1.5 đến 2.4), và tiềm năng cao (ĐTB từ 2.5 đến 3).

2.3. Kết quả nghiên cứu biểu hiện sớm của khả năng nghiên cứu khoa học ở sinh viên ngành Tâm lý học

2.3.1. Thang đo mức độ biểu hiện sớm của khả năng nghiên cứu khoa học ở sinh viên ngành Tâm lý học

Dựa trên việc thu thập thông tin từ bảng hỏi mở và phỏng vấn chuyên gia về biểu hiện sớm của khả năng NCKH ở SV ngành Tâm lý học, chúng tôi thu thập được một số biểu hiện như sau:

Mặt biểu hiện

Mức tiềm tàng

Mức tiềm năng

Mức tiềm năng cao

+ Nhận thức về vai trò của NCKH trong học tập và nghề nghiệp.

+ Mong muốn được biết về nguyên nhân của các hiện tượng tâm lý xung quanh.

+ Luôn muốn biết rõ cơ sở nào để có được thông tin mới đưa vào hệ thống kiến thức cũ.

Chưa quan tâm, coi NCKH là nhiệm vụ xa vời. Hiếm khi đặt câu hỏi về hiện tượng tâm lý. Chỉ tiếp nhận kiến thức từ GV, không quan tâm đến nguồn.

Hiểu sơ lược tầm quan trọng, nhận thấy NCKH cần thiết nhưng chưa gắn với bản thân. Đôi khi thắc mắc, đặt câu hỏi đơn giản khi gặp hiện tượng lạ. Đôi khi tìm hiểu xuất xứ thông tin nhưng chưa có thói quen.

Ý thức rõ vai tròcủa NCKH và coi đó  yếu tố cần thiết để phát triển nghề nghiệp. Thường xuyên tự đặt câu hỏi “tại sao” và chủ động tìm hiểu. Luôn quan tâm cơ sở khoa học của thông tin và cách liên hệ với kiến thức đã có

+ Hứng thú với các vấn đề tâm lý, xã hội.

+ Hào hứng với các ví dụ về các NCKH.

+ Thích thú với việc đặt câu hỏi đào sâu về các vấn đề tâm lý học

Chỉ quan tâm đến các vấn đề tâm lý, xã hội khi được yêu cầu. Ít để ý, coi ví dụ về các NCKH là minh họa không quan trọng. Ngại hỏi đào sâu về các vấn đề tâm lý học, ít khi phát biểu

Có sự quan tâm chọn lọc, đọc thêm đôi chút ngoài yêu cầu. Chú ý nghe và ghi nhớ các ví dụ trong giờ học. Thỉnh thoảng đặt câu hỏi đào sâu về các vấn đề tâm lý học mang tính tò mò.

Luôn chủ động tìm hiểu, kết nối bài học với vấn đề thực tiễn xã hội. Hứng thú, ghi chú và tìm đọc thêm về nghiên cứu được giới thiệu. Thường xuyên đặt câu hỏi đào sâu để hiểu rõ bản chất vấn đề.

+ Tích cực đặt câu hỏi và tham gia thảo luận về hiện tượng tâm lý trong giờ học.

+ Tìm đọc tài liệu ngoài chương trình, biết ghi chú và tóm tắt nội dung cơ bản.

+ Làm quen với việc sử dụng thư viện, tìm kiếm tài liệu online.

+ Làm quen với cách trích dẫn nguồn tài liệu khi làm bài tập học thuật.

+ Quan sát hiện tượng và mô tả theo cách hiểu cá nhân.

Thụ động, ít tham gia thảo luận về hiện tượng tâm lý trong giờ học. Không chủ động tìm tài liệu. Ít hoặc chưa từng sử dụng thư viện, tài liệu online. Chưa biết cách trích dẫn. Quan sát cảm tính, không ghi chép.

 

Có tham gia thảo luận về hiện tượng tâm lý trong giờ học nhưng còn dè dặt. Đôi khi tìm tài liệu nhưng còn lúng túng trong ghi chú. Biết tìm tài liệu nhưng còn phụ thuộc hướng dẫn. Bắt đầu thử trích dẫn theo hướng dẫn. Có ghi nhận các hiện tượng tâm lý nhưng mô tả biểu hiện còn khá lộn xộn

Tích cực phát biểu, tranh luận, phản biện rõ ràng. Thường xuyên tìm tài liệu ngoài giáo trình, biết ghi chú, tóm tắt nội dung chính. Chủ động sử dụng thư viện, các nguồn học thuật để tìm tài liệu. Biết cách trích dẫn cơ bản và áp dụng trong bài tập. Quan sát có chủ đích, mô tả hiện tượng theo trình tự và ngôn ngữ rõ ràng.

 

Bảng 1: Biểu hiện và mức độ khả năng NCKH của SV

Ở giai đoạn đầu của quá trình học đại học, khả năng NCKH của SV ngành Tâm lý học thường mới xuất hiện ở mức sơ khởi. Những khả năng này chưa có hệ thống, còn rời rạc và chủ yếu được hình thành từ những trải nghiệm học tập ban đầu trong các học phần cơ sởTrong thời gian năm đầu, SV thường chỉ mới thể hiện sự quan tâm đến việc tìm hiểu hiện tượng tâm lý và bước đầu làm quen với cách đặt câu hỏi, tìm tài liệu, quan sát và mô tả hiện tượng. Những khả năng này chưa đủ để triển khai một nghiêncứu hoàn chỉnh nhưng lại đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển chuyên sâu sau này. Việc phát hiện sớm những biểu hiện về khả năng NCKH sẽ giúp GV  định hướng tác động nuôi dưỡng các nhân tố tiềm năng NCKH.

2.3.2. Thực trạng mức độ biểu hiện sớm của khả năng nghiên cứu khoa học ở sinh viên ngành Tâm lý học

Chúng tôi thăm dò 11 nội dung được đề xuất bởi GV về dấu hiệu nhận biết sớm SV có khả năng NCKH và được báo cáo kết quả trong bảng 2.

Nội dung

ĐTB

Mức 

Số lượng SV theo mức

1

2

3

2.1. Nhận thức về vai trò của NCKH trong học tập và nghề nghiệp

2,59

Tiềm năng cao

12

15

5

2.2. Mong muốn được biết về nguyên nhân của các hiện tượng tâm lý xung quanh.

2,63

Tiềm năng cao

10

17

5

2.3. Luôn muốn biết rõ cơ sở nào để có được thông tin mới đưa vào hệ thống kiến thức cũ.

1,65

Tiềm năng

21

8

3

2.4. Hứng thú với các vấn đề tâm lý, xã hội.

2,53

Tiềm năng cao

11

14

7

2.5. Hào hứng với các ví dụ về các NCKH.

2,72

Tiềm năng cao

9

17

6

2.6. Thích thú với việc đặt câu hỏi đào sâu về các vấn đề tâm lý học

2,66

Tiềm năng cao

9

15

8

2.7. Tích cực đặt câu hỏi và tham gia thảo luận về hiện tượng tâm lý trong giờ học.

1,32

Tiềm tàng

25

5

2

2.8. Tìm đọc tài liệu ngoài chương trình, biết ghi chú và tóm tắt nội dung cơ bản.

2,51

Tiềm năng cao

13

15

4

2.9. Làm quen với việc sử dụng thư viện, tìm kiếm tài liệu online.

1,82

Tiềm năng

23

3

6

2.10. Làm quen với cách trích dẫn nguồn tài liệu khi làm bài tập học thuật.

2,55

Tiềm năng cao

11

13

8

2.11. Quan sát hiện tượng và mô tả theo cách hiểu cá nhân.

1,24

Tiềm tàng

24

5

3

Bảng 2: ĐTB và số lượng SV phân phối theo mức độ biểu hiện sớm của khả năng NCKH

Ghi chú: 1. Mức tiềm tàng 2. Mức tiềm năng 3. Mức tiềm năng cao

 

Dựa vào bảng 2 cho thấy, các nội dung thăm dò có ĐTB trải đều trên ba mức độ từ tiềm tàng đến tiềm năng cao. Ba nội dung biểu hiện có ĐTB cao nhất (mức tiềm năng cao)  SV cảm thấy hào hứng với các dụ về các NCKH (ĐTB = 2,72); thích thú với việc đặt câu hỏi đào sâu về các vấn đề tâm lý học (ĐTB = 2,66); Mong muốn được biết về nguyên nhân của các hiện tượng tâm lý xung quanh (ĐTB = 2,63). Điều này cho thấy, các SV tiềm năng cao thường có những biểu hiện trội về mặt thái độ của bản thân đối với các vấn đề liên quan đến NCKH ngay từ sớm. GV T.T.L cho biết, SV sẽ có những biểu hiện quan tâm đến “các vấn đề khoa học chuyên ngành” ngay từ buổi đầu học các môn đại cương. Mặc dù các bạn còn khá bỡ ngỡ và rụt rè do môi trường mới nhưng nếu GV tinh ý sẽ thấy vài bạn có biểu hiện quan tâm đặc biệt đến nội dung bài giảng có liên quan đến các ví dụ liên quan đến “thực nghiệm nghề nghiệp”. SV N.V.M cho biết, bản thân em cũng rất hứng thú với các thông tin khoa học nghề nghiệp và rất muốn học hỏi để có thể tham gia hoạt động NCKH.

Các nội dung tập trung ở mức tiềm năng gồm: SV luôn muốn biết rõ cơ sở nào để có được thông tin mới đưa vào hệ thống kiến thức cũ; Làm quen với việc sử dụng thư viện, tìm kiếm tài liệu online. Đây là các bội dung cần phát huy để SV có thể phát triển khả năng NCKH cho bản thân. Các nội dung có ĐTB biểu hiện ở mức tiềm tàng gồm: Quan sát hiện tượng và mô tả theo cách hiểu cá nhân (ĐTB = 1,24); Tích cực đặt câu hỏi và tham gia thảo luận về hiện tượng tâm lý trong giờ học (ĐTB = 1,32). Đối lập với ba nội dung biểu hiện ở mức tiềm năng cao, có đến 2 nội dung ở mức tiềm tàng do biểu hiện không rõràng. Mặc dù SV có hứng thú với các nội dung mang tính chất NCKH thế nhưng SV V.T.K cảm thấykhông đủ tự tin” để thảo luận vì bản thân chưa có chuẩn bị kiến thức chuyên ngành về vấn đề thảo luận và sợ bị “đánh giá”. GV N.M.A cho rằng, việc SV không thể hiện tham gia thảo luận hoặc mô hình hóalại các hiện tượng tâm  theo cách hiểu cá nhân  do bản thân các em một phần và còn một phần khác do GV chưa thật sự nâng đỡ các em trong vệc khuyến khích tham gia thảo luận trên lớp.

2.3.3. Phân bổ số lượng sinh viên theo các biến nhân khẩu

Kết quả 32 SV tham gia khảo sát có 11 SV (chiếm 34,4%) đạt mức tiềm tàng. Có 40,6 % số lượng SV (tương ứng 13 SV) đạt mức tiềm năng. Có đến 25% (tương ứng 8 SV) đạt mức tiềm năng cao. Số lượng phân bố theo từng mức độ và nội dung thăm dò được trình bày trong bảng 3.

Mức độ

Giới tính

Năm học

Tổng

Nam

Nữ

Thứ nhất

Thứ hai

Tiềm tàng

7

4

6

5

11

Tiềm năng

8

5

6

7

13

Tiềm năng cao

5

3

5

3

8

Tổng

20

12

17

15

32

 

Bảng 3: Số lượng SV phân phối theo giới tính và năm học

Nhìn chung phần lớn SV nằm ở mức tiềm năng (13/32), tiếp đến là tiềm tàng (11/32) và thấp nhất là tiềm năng cao (8/32). Điều này cho thấy phần đông SV mới dừng lại ở mức trung gian cần được hỗ trợ để nâng lên mức tiềm năng cao.

Xét theo giới tính, SV nam chiếm ưu thế ở tất cả các mức. Ở mức tiềm tàng có 7 nam và 4 nữ, ở mức tiềm năng có 8 nam và 5 nữ và ở mức tiềm năng cao có 5 nam và 3 nữ. Điều này cho thấy nhìn chung nam giới chiếm tỷ lệ nhiều hơn trong mẫu khảo sát. Để tìm kiếm sự khác biệt về xu hướng phân bố các mức độ theo giới, chúng tôi đã dùng Chi-square để kiểm tra. Kết quả cho thấy, có sự khác biệt về biểu hiện sớm khả năng NCKH giữa nam và nữ (sig = 0.02<0.05).

Xét theo năm học, SV năm thứ nhất và năm thứ hai  phân bố khá tương đồng. Ở mức tiềm tàng, SV năm thứ nhất chiếm 6 và năm thứ hai chiếm 5. Ở mức tiềm năng, số lượng lần lượt là 6 và 7. Tuy nhiên, ở mức tiềm năng cao, SV năm thứ nhất chiếm 5 trong khi năm thứ hai chỉ có 3. Điều này phản ánh SV năm thứ nhất  phần nổi bật hơn ở nhóm đạt mức tiềm năng cao, trong khi SV năm thứ hai tập trung nhiều ở mức tiềm năng trung bình. Thế nhưng, bằng kiểm nghiệm thống kê cho thấy không có sự khác biệt về mức độ biểu hiện giữa hai nhóm SV phân bố theo năm học.

3. Kết luận và kiến nghị

3.1. Kết luận

Kết quả khảo sát cho thấy những SV được GV đề xuất có tiềm năng NCKH ngành Tâm lý học bước đầu đã hình thành nhận thức tích cực và hứng thú rõ rệt đối với NCKH. Những biểu hiện nổi bật nhất của nhóm SV tiềm năng cao chủ yếu liên quan đến động cơ bên trong và thái độ như hào hứng với các ví dụ nghiên cứu, thích thú đặt câu hỏi đào sâu và mong muốn tìm hiểu nguyên nhân của các hiện tượng tâm lý. Đây là những yếu tố thuận lợi tạo nền tảng để phát triển khả năng NCKH ở các giai đoạn sau.

Tuy nhiên, năng lực hành động cụ thể liên quan đến thực hành NCKH như tích cực tham gia thảo luận, quan sát và mô tả hiện tượng hoặc chủ động tìm kiếm tài liệu vẫn còn ở mức thấp. Nhiều SV chưa tự tin thể hiện quan điểm do thiếu kiến thức nền tảng hoặc do môi trường học tập chưa thực sự khuyến khích trao đổi. Điều này dẫn đến sự chênh lệch rõ rệt giữa hứng thú nhận thức và hành vi thực tiễn. Sự phân bố theo giới và năm học cũng cho thấy sự khác biệt. SV nam có ĐTB về khả năng NCKH cao hơn nữ. Trong khi SV năm thứ nhất có xu hướng đạt mức tiềm năng cao nhiều hơn SV năm thứ hai. Tuy nhiên, mức độ phát triển khả năng nhìn chung vẫn tập trung ở mức tiềm năng trung bình mà không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê.

Kết quả nghiên cứu cho thấy rất cần có sự can thiệp và định hướng có hệ thống từ phía GV  nhàtrường nhằm chuyển hóa hứng thú nhận thức thành khả năng thực hành. Việc tăng cường cơ hội tiếp cận tài liệu, hướng dẫn phương pháp nghiên cứu ngay từ năm đầu, đồng thời tạo môi trường học thuật cởi mở để khuyến khích SV tham gia thảo luận sẽ là những giải pháp quan trọng để nâng dần trình độ SV từ mức tiềm năng lên mức tiềm năng cao, từ đó hình thành và phát triển vững chắc khả năng NCKH.

3.2. Kiến nghị

Từ kết quả nghiên cứu, có thể thấy năng lực NCKH của SV ngành Tâm lý học tuy đã hình thành các biểu hiện ban đầu về nhận thức và hứng thú nhưng vẫn ở mức chưa ổn định và thiếu kỹ năng thực hành. Do vậy, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị nhằm phát hiện và bồi dưỡng khả năng NCKH ở SV ngay từ những năm học đầu tiên.

Trước hết, đối với nhà trường và khoa chuyên môn cần xây dựng một chiến lược phát triển năng lực NCKH cho SV theo hướng hệ thống, bắt đầu từ giai đoạn nhập học. Cần đưa các học phần liên quan đến phương pháp NCKH vào thời gian sớm hơn, không nên để đến những năm cuối. Việc triển khai các môn phương pháp nên được điều chỉnh để tăng yếu tố thực hành, gắn với bài tập tình huống cụ thể giúp SV có cơ hội tiếp xúc sớm với cách đặt câu hỏi nghiên cứu, xử lý thông tin và rèn luyện tư duy khoa học. Đồng thời, nhà trường cần đa dạng hóa hình thức tổ chức các câu lạc bộ, diễn đàn hoặc tọa đàm về NCKH để tạo môi trường giao lưu, khích lệ tinh thần khám pháđặc biệt là đối với SV năm thứ nhất và năm thứ hai.

Đối với GV, kết quả nghiên cứu chỉ ra SV tuy hứng thú với nghiên cứu nhưng còn thiếu tự tin và chưa chủ động đặt câu hỏi hoặc tham gia thảo luận. Vì vậy, GV cần tăng cường những hoạt động giảng dạy theo hướng khuyến khích người học đặt câu hỏi và tranh luận. Thay vì chỉ trình bày nội dung, GV  thểtích hợp các hoạt động như thảo luận nhóm nhỏtrình bày phản biện hoặc các bài tập tìm hiểu tài liệu ngắn theo chủ đềBên cạnh đóGV nên đóng vai trò cố vấn, giúp SV làm quen với quy trình tìm kiếm, khai thác và trích dẫn tài liệu khoa học, qua đó hình thành thói quen học thuật chuẩn ngay từ đầu. Một khía cạnh quan trọng khác là tạo cơ hội tham gia nghiên cứu thực tế. GV  thể khuyến khích và tuyển chọn những SV có biểu hiện tiềm năng tham gia trợ lý nghiên cứu cùng thực hiện các đề tài nhỏ hoặc các bước trong đề tài lớn của GV. Những trải nghiệm này giúp SV chuyển hóa sự quan tâm thành kỹ năng, đồng thời nâng cao tính tự tin và khả năng hợp tác học thuật. Việc này cũng giúp thu hẹp khoảng cách giữa lý thuyết được học và năng lực thực hành nghiên cứu.

Về phía SV cần nâng cao ý thức tự học và chủ động hơn trong việc tham gia vào các hoạt động tìm hiểu, đọc tài liệu, ghi chú và tóm tắt thông tin. SV không nên chỉ chờ GV giao nhiệm vụ mà cần tập thói quen tự đặt câu hỏi, thảo luận cùng bạn bè và tìm nguồn học thuật để mở rộng hiểu biết. Ngoài ra, SV nên tận dụng các nguồn tài nguyên như thư viện, cơ sở dữ liệu điện tử để làm quen với cách thức khai thác thông tin khoa học. Việc tham gia các hội thảo, câu lạc bộ nghiên cứu cũng là cơ hội để rèn luyện kỹ năng giao tiếp học thuật và trình bày kết quả tìm hiểu.

Bên cạnh các giải pháp trực tiếp cần xây dựng cơ chế khuyến khích và chính sách hỗ trợ. Nhà trường nên có hình thức khen thưởng hoặc cộng điểm đối với những SV tích cực trong các hoạt động nghiên cứu. Đồng thời cần mở rộng các quỹ hỗ trợ nhỏ cho các dự án nghiên cứu SV, đặc biệt là các đề tài do SV năm thứ nhất và năm thứ hai khởi xướng dưới sự hướng dẫn của GV. Việc này vừa giúp SV cảm nhận được sự quan tâm của nhà trường vừa tăng tính cam kết trong quá trình rèn luyện kỹ năng nghiên cứu.

Cuối cùng, về phương diện nghiên cứu tiếp theo cần tiến hành khảo sát trên mẫu lớn và đa dạng hơn về trường đào tạo để so sánh mức độ biểu hiện sớm năng lực NCKH giữa các khu vực đào tạo. Bên cạnh đó, nên mở rộng bộ công cụ đo lường để đánh giá sâu hơn không chỉ về nhận thức và thái độ mà cả kỹ năng thực hành của SV. Các nghiên cứu tiếp theo cũng cần phân tích sâu hơn các yếu tố ảnh hưởng như động cơ học tập, môi trường lớp học hay kinh nghiệm cá nhân nhằm đưa ra những khuyến nghị phù hợp hơn trong việc phát triển năng lực NCKH cho SV. Những kiến nghị trên nếu được thực hiện đồng bộ sẽ góp phần chuyển hóa hứng thú và động lực thành kỹ năng nghiên cứu cụ thể, qua đó nâng cao chất lượng đào tạo và chuẩn bị nguồn nhân lực có năng lực NCKH vững chắc cho chuyên ngành Tâm lý học.

 

Tài liệu tham khảo

[1] Lê Thị Thảo Nguyên (2025), Kỹ năng nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học Tây Nguyên, Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số đặc biệt tháng 4, tr. 74-79.

[2] Trần Thị Thảo (2017), Thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên Khoa Tâm lí - Giáo dục Trường Đại học Thủ đô Hà Nội, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Thủ đô  Nội, 19(1), 126-136.

[3] Lê Thị Thảo Nguyên (2025), Khó khăn tâm lý trong hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học Tây Nguyên, Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số đặc biệt tháng 4, tr. 189-194.

[4] Nguyễn Xuân Thức (2012), Kỹ năng nghiên cứu khoa học của sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội, Tạp chí Tâm lý học, 5(158), 17-26.

[5] Phạm Thị Thu Hoa (2008), Những khó khăn thường gặp trong nghiên cứu khoa học của sinh viên, Tạp chí Tâm lý học, 7(112), 

Sửa lần cuối vào

Bình luận

Để lại một bình luận

Tìm kiếm

Điện thoại liên hệ: 024 62946516