Đăng nhập

Top Panel
Trang nhấtGiáo dụcPHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Thứ sáu, 22 Tháng 8 2025 17:15
Bài đăng trên Tạp chí Giáo dục và Xã hội Số 173 (234), Tháng 8/2025 (kì 1).

LUYỆN THỊ HỒNG HẠNH 

Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên

Ngày nhận bài 02/7/2025. Sửa chữa xong 03/8/2025. Duyệt đăng 05/8/2025.

Abstract

The Fourth Industrial Revolution and the expansion of international cooperation have fundamentally and rapidly transformed labor structures and markets. These changes require workers to adapt and develop into high-quality human resources to meet the demands of global integration. This article examines the development of high-quality human resources in Vietnam within the context of international integration.

Keywords: Solution, development, high quality human resources, international integration.

1. Đặt vấn đề

Nguồn nhân lực (NNL) nói chung, NNL chất lượng cao nói riêng đóng vai trò quyết định quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế -  hội, giúp nâng cao năng suất lao động (NSLĐ), tăng hiệu quả làmviệc và sự phát triển bền vững đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt là nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức. Một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh, bền vững phải có 3 trụ cột: NNL chất lượng cao, áp dụng công nghệ mới và kết cấu hạ tầng hiện đại. Trong đóNNL chất lượng cao đóng vai trò tiênphong, bởi họ  người có kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo. Trong bối cảnh toàn cầu hóa  hội nhập quốc tế với những biến động, cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về đất nước cóNNL chất lượng cao nên NNL chất lượng cao càng trở nên quan trọng. Những năm gần đâyNNL ởnước ta có những bước đột phá về chất lượng và trình độ chuyên mônTuy nhiênso với các nước pháttriển trong cùng khu vực thì NSLĐ  nước ta vẫn còn chênh lệch. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: Phát triển NNL, nhất là NNL chất lượng cao; phát triển NNL cho công tác lãnh đạo, quản lý  các lĩnh vực then chốt trên  sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽtoàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài…” [1, tr. 20] đãthể hiện tầm nhìn  duy về nhiệm vụ phát triển NNL chất lượng cao để xây dựng đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra mạnh mẽ.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Đảng ta lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ này với quan điểm phát triển NNL chất lượng cao thông qua con đường phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ chính là khâu then chốt để nước ta vượt qua tình trạng nước nghèo  kém phát triển. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta cũng khẳng định trọng dụng nhân tàicác nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kĩ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Có chính sách thu hút các nhà khoa học công nghệ giỏi trong nước và ngoài nước, trong cộng đồng người Việt định cư ở nước ngoài. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh đến nhiệm vụ phải tập trung phát triển nhanh NNL chất lượng cao, trong đó nhấn mạnh việc phát triển và nâng cao chất lượng NNL, nhất là NNL chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh dài hạn, đảm bảo kinh tế - xã hội phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững.

Đại hội XI (năm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ : “Phát triển và nâng cao chất lượng NNL, nhất là NNL chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ cấu lại nền kinh tếchuyển đổi mô hình tăng trưởng và  lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả  bền vững” [2]. Quan điểm này đánh dấu bước phát triển trong nhận thức về vai trò của nhân tố con người trong chiến lược phát triển nhanh và bền vững, coi phát triển NNL chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá của chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ mới. 

Đề án phát triển NNL chất lượng cao giai đoạn 2011-2020 của Chính phủ đã phê duyệt đề án này, với mục tiêu tạo ra lực lượng lao động có kỹ năng và trình độ cao trong các lĩnh vực quan trọng như công nghệ thông tin, năng lượng, môi trường và công nghệ sinh học. Chương trình cũng đặt mục tiêu cải thiện kỹ năng ngoại ngữ và kỹ năng làm việc theo tiêu chuẩn quốc tế cho người lao động. Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã góp phần thúc đẩy chất lượng giáo dục và đào tạo toàn diện, từ chương trình học, phương pháp giảng dạy đến cơ cấu tổ chức giáo dục. Đặc biệt, nghị quyết nhấn mạnh sự cần thiết phải nâng cao năng lực của giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của NNL chất lượng cao với quan điểm: “Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và NNL chất lượng cao làm động lực chủ yếu” [3]. Đồng thời, Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ: “Xây dựng chiến lược phát triển NNL cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộtrong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại NNL trong nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất - kinh doanh, chú trọng nâng cao tính chuyên nghiệp và kỹ năng thực hành”.

Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục xác định: Phát triển NNL, nhất là NNL chất lượng cao; ưu tiên phát triển NNL cho công tác lãnh đạo, quản lý  các lĩnh vực then chốt trên  sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽtoàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tàiđẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệđổi mới sáng tạo”. Đại hội cũng đặt ra yêu cầu phải Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữcông nghệ thông tin, công nghệ số duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàncầu)”.

Những chủ trương của Đảng đưa ra là hết sức đúng đắn, thể hiện tư duy, tầm nhìn mới về phát triển NNL, nhất là NNL chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong thời kỳ mới. Cho đến nay, những chủ trương và chính sách về thu hút, trọng dụng nhân tài, các ngành và địa phương chủ động cụ thể hóa vào hoàn cảnh, điều kiện của địa bàn như Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6/8/2008, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”; Nghị định số 140/2017/-CP, ngày 5/12/2017 của Chính phủ “Về chính sách thu hút,tạo nguồn cán bộ từ SV tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ”; Luật số 52/2019/QH14, ngày 25/11/2019, của Quốc hội về “Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức”; Quyết định số 899/QĐ-TTg, ngày 31/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ về “Phê duyệt Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050”; Nghị quyết số 45-NQ/TW, ngày 24/11/2023, của Hội nghị Trung ương tám khóa XIII, “Về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới”; Quy định số 142-QĐ/TW, ngày 23/4/2024, Bộ Chính trị về “Quy định thí điểm giao quyền, trách nhiệm cho người đứng đầu trong công tác cán bộ, cho phép người đứng đầu giới thiệu nhân sự bầu cử, bổ nhiệm làm cấp phó”; Quy định số 144-QĐ/TW của Bộ Chính trị, ngày 9/5/2024 về “Quy định về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới”...

2.2. Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay

2.2.1. Những kết quả đạt được trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao 

Đánh giá của Tổng cục Thống kê năm 2024 cho thấy bức tranh toàn cảnh hiện tại của Việt Nam về dân số và cơ cấu lao động. Cụ thể, Việt Nam là một quốc gia có dân số đông, đến năm 2023 dân số trung bình đã vượt ngưỡng 100 triệu người, đông dân thứ ba trong khu vực Đông Nam Á và đứng thứ 15 trên thế giới. Cơ cấu dân số của Việt Nam đang dịch chuyển theo hướng tăng tỷ lệ người cao tuổi và giảm tỷ lệ dân số trẻ. Việt Nam hiện đang trong thời kỳ dân số vàng nhưng cũng trong thời kỳ già hóa dân số (dân số trẻ từ 0 - 14 tuổi giảm từ 24,3% (năm 2020) xuống khoảng 23,9% (năm 2024), nhóm dân số tuổi từ 60 trở lên tăng nhanh từ 11,9% (năm 2020) lên 13,9% (năm 2024). Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2024 đạt 52,4 triệu người (lực lượng ở khu vực thành thị là 19,5 triệu nguời, chiếm 37,3%, khu vực nông thôn là 32,9 triệu người, chiếm 62,7%), tăng 666,5 nghìn người. Số lao động có việc làm đạt 51,3 triệu người, số người thất nghiệp là 1,07 triệu, tỷ lệ thất nghiệp là 2,28%, số người thiếu việc làm là 918,5 nghìn người [4, tr. 15]. Tình hình lao động cho thấy:

Mặt tích cực: 1- Lực lượng lao động và số người có việc làm có xu thế tăng; 2- Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2024 là 27%, tăng so với năm trước; 3- Thu nhập bình quân hằng tháng của người lao động là 7,1 triệu đồng, tăng 6,9% so với năm trước; 4- Tình hình thất nghiệp và thiếu việc làm có cải thiện…

Điểm hạn chế: 1- Về chất lượng, cung lao động còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng cho cầu lao động của một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập. Khoảng 38 triệu người lao động chưa qua đào tạo từ sơ cấp trở lên. Con số này cho thấy thách thức không nhỏ trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật cho người lao động; 2- Số người lao động đang làm việc có xu hướng tăng, nhưng thị trường lao động chưa có sự cải thiện về chất lượng lao động, khi số lao động phi chính thức làm công việc bấp bênh, thiếu ổn định vẫn chiếm tỷ trọng lớn; 3- Tỷ lệ thanh niên thất nghiệp còn cao, năm 2024 là 7,63% và chiếm 41,3% tổng số người thất nghiệp. Số thanh niên từ 15 tuổi - 24 tuổi không có việc làm và không tham gia học tập, đào tạo khoảng 1,5 triệu người, chiếm 11,5% tổng số thanh niên; 4- Số lao động không sử dụng hết tiềm năng là 2,3 triệu người, chiếm 4,3% tổng số lao động.

Số liệu trên cho thấy, nguồn nhân lực của Việt Nam khá dồi dào về số lượng, xét cả hai tiêu chí về quy mô dân số và tốc độ tăng dân số, mặc dù đã xuất hiện dấu hiệu ở một số khu vực đô thị và vùng về tỷ lệ sinh giảm, không bảo đảm mức sinh thay thế, song, số lao động hằng năm vẫn tăng, nguồn nhân lực trẻ vẫn chiếm tỷ lệ khá cao. Chất lượng lao động ngày càng được cải thiện nhưng chưa thể đáp ứng yêu cầu về số lượng, nhất là lực lượng lao động chất lượng cao, lao động có sức khỏe cả về trí và lực, có kiến thức, có kỹ năng và sức sáng tạo. Đây là vốn quý, là tài nguyên, là lực lượng quyết định đến năng suất lao động, giá trị gia tăng, sức phát triển, sức cạnh tranh và khả năng độc lập, tự chủ của một quốc gia. Đây cũng chính là đòn bẩy, tạo sức bật để chúng ta vượt qua nguy cơ bẫy thu nhập trung bình khi Việt Nam đạt được mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và phấn đấu trở thành một nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045. Có thể nói, để phát triển kinh tế - xã hội có nhiều yếu tố nhưng yếu tố quyết định và động lực chính là nguồn lực con người, nguồn lực lao động, trong đó tiên phong là nguồn lao động có chất lượng cao.

2.2.2. Thách thức đặt ra trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao 

Bên cạnh những điểm tích cực nêu trên, chất lượng NNL Việt Nam nhìn chung còn thấp, mặt khác, việc phát triển NNL chất lượng cao hiện nay đã bộc lộ một số hạn chế, chưa đáp ứng với đòi hỏi của thị trường lao động và quá trình hội nhập sâu rộng hiện nay:

Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển đất nước song ở một số địa phương việc nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của NNL chất lượng cao đối với phát triển kinh tế - xã hội còn chưa cao. Một số chủ trương, quyết định đầu tư các dự án, công trình, chủ doanh nghiệp chỉ quan tâm đến đất đai, vốn, công nghệ mà ít quan tâm đến nhân lực lao động.

Chất lượng NNL vẫn chưa cao. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, chất lượng NNL Việt Nam đạt mức 3,79 điểm (trong thang điểm 10) xếp hạng thứ 11/12 quốc gia được khảo sát tại châu Á. Trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ đạt 5,76 điểm; Malaysia đạt 5,59 điểm. Trong khi đó, chất lượng NNLđược đào tạo nhìn chung chưa cao; trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu và theo kịp xu hướng thời đại 4.0 hiện nay; năng lực xã hội, khả năng thích ứng với công việc còn hạn chế. Chẳng hạn, như nhân lực ngành Công nghệ thông tin, có 72% số SV ngành Công nghệ thông tin không có kinh nghiệm thực hành, 42% số SV thiếu kỹ năng làm việc nhóm [5].

Chất lượng giáo dục đại học còn thấp và không đáp ứng nhu cầu kỹ năng của thị trường lao động. Cơ cấu đào tạo và giáo dục nghề nghiệp còn bất cập, chủ yếu vẫn là trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng (chiếm 75%), trình độ trung cấp, cao đẳng chỉ chiếm khoảng 25%. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2023, lực lượng lao động của Việt Nam đạt hơn 52,6 triệu người, trong đó tỷ lệ lao động có trình độ đại học và trên đại học chiếm khoảng 10%. Tuy nhiên, báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) vào năm 2022 chỉ ra, phần lớn lực lượng lao động vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu về kỹ năng mềm, khả năng làm việc nhóm và trình độ công nghệ thông tin. Học sinh, SV tốt nghiệp có năng lực chuyên môn chưa phù hợp với yêu cầu của thực tiễn sản xuất - kinh doanh, dịch vụ; còn yếu về ngoại ngữ và các kỹ năng mềm như tác phong công nghiệp, khả năng làm việc theo tổ, nhóm, kỹ năng khởi nghiệp. Qua khảo sát trong các doanh nghiệp FDI, các nhà đầu tư nước ngoài (FDI) ít hài lòng về chất lượng đào tạo nghề tại các địa phương và cho biết họ phải chi nhiều hơn cho việc đào tạo lại lao động mới tuyển vào. Việt Nam cũng đang đối diện với thực trạng “thừa thầy thiếu thợ”  chất lượng đào tạo đại học vẫn chưa đồng bộ với nhu cầu thực tiễn. Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu Phát triển Nhân lực (2022), khoảng 40% SV ra trường không tìm được việc làm đúng chuyên ngành, do thiếu hụt kỹ năng mềm và kinh nghiệm thực tế. Điều này đặt ra câu hỏi lớn về cách thức cải tiến hệ thống đào tạo hiện tại để đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường lao động. Có thể khẳng định, NNL lao động Việt Nam có số lượng lớn nhưng chất lượng còn thấp, thiếu hụt lao động có tay nghề cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động và hội nhập; khoảng cách giữa giáo dục nghề nghiệp và nhu cầu của thị trường lao động ngày càng lớn. Chúng ta chủ yếu vẫn chỉ khai thác lao động giá rẻ, lao động giản đơn, với 33,2% việc làm kỹ năng thấp, chỉ có 11,2% việc làm kỹ năng cao, cách khá xa so với trung bình các nước phát triển trên thế giới (20%).

2.3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay

2.3.1. Xây dựng, triển khai các kế hoạch, chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Xây dựng chiến lược phát triển NNL của đất nước theo từng ngành, nghề, lĩnh vực, chú trọng tính chuyên nghiệp, kỹ năng thực hành của người lao động trong quá trình đào tạo. Việc xây dựng chiến lược phát triển NNL cần gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tếXác định rõ các chủ thể  trách nhiệm trong việc xây dựng và phát triển NNL đất nước. Đồng thời cần khai thác, sử dụng NNL, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong các ngành công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và các ngành dịch vụ. Kế hoạch nâng cao chất lượng NNL cần xác định rõ các mục tiêu cụ thể trong việc gia tăng quy mô và chất lượng NNL đối với từng ngành, lĩnh vực, từ đó có kế hoạch và tổ chức triển khai các chương trình đào tạo nâng cao trình độ kiến thức, khoa học - công nghệ, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong làm việc đối với từng đối tượng cụ thể. Người lao động cần có sức khỏe tốt, trình độ chuyên môn, năng lực, phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần, thái độ, động lực làm việc tốt cùng với công cụ lao động tốt, họ sẽ tạo ra sản phẩm, năng suất lao động cao.

2.3.2. Sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn nhân lực

 Trong quá trình hội nhập quốc tế, việc sử dụng hợp lý NNL không chỉ tạo ra sự hài hòa, cân đối trong cấu trúc các ngành nghề, lĩnh vực phát triển mà còn tạo động lực thúc đẩy phát triển NNL, lực lượng sản xuất của đất nước. Trong bối cảnh hiện nay, từ thực trạng nguồn lao động hiện tại cần có sự đổi mới mạnh mẽ về quản lý nhà nước đối với phát triển NNL. Việc đổi mới cần tập trung hướng tới kiến tạo bộ máy quản lý hành chính nhà nước về phát triển NNL tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Theo đó, cần hình thành một cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, xây dựng hệ thống thông tin về cung - cầu nhân lực trên địa bàn cả nước nhằm bảo đảm cân đối cung - cầu nhân lực cho các ngành, lĩnh vực cụ thể. Cùng với đó cần đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ công chức, qua đó nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực, kỹ năng đáp ứng yêu cầu. Cần xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức tham mưu chiến lược, có chính sách phù hợp với đội ngũ chuyên gia để thu hút người tài vào làm việc trong cơ quan của hệ thống chính trị, có chính sách thu hút cán bộ trẻ có trình độ học vấn cao, trình độ chuyên môn, kỹ thuật tốt về công tác tại các địa phương, khu vực cơ sở. Gắn chính sách tinh giản biên chế với việc thực hiện cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Việc phân bố NNL hợp lý là cơ sở động lực trong quá trình hội nhập quốc tế giúp cân đối giữa các vùng, miền và xuất phát từ yêucầu giữ vững ổn định chính trịbảo đảm quốc phòng, an ninh đất nước. Do đócần tập trung chuyển dịch NNL trong các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và các khu vực trực tiếp sản xuất, đặc biệt ưu tiên đối với các ngành công nghiệp trọng yếu, công nghiệp mũi nhọn, tạo điều kiện phát triển chất lượng NNL bao gồm các nội dung về môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, các điều kiện về nhà ở và sinh hoạt hằng ngày cho người lao động tại khu vực sinh sống, định cư.

Quan tâm các chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao. Tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, chủ thể tham gia phát triển nhân lực bảo đảm việc sử dụng NNL theo đúng chuyên môn ngành nghề đã được đào tạo. Đồng thời cần có cơ chế, chính sách để đánh giá, đãi ngộ NNL theo năng lực, kết quả công việc, thực tiễn kết quả sản xuất kinh doanh mà họ được phân công đảm nhiệm, phụ trách. Việc hình thành và phát triển thị trường lao động phải bảo đảm yêu cầu phát triển kinh tế nhằm tạo điều kiện vật chất cần thiết phục vụ cho nhu cầu phát triển của nhân lực. Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài cho phát triển nhân lực Việt Nam. Có cơ chế thu hút đầu tư trực tiếp FDI của nước ngoài cho phát triển nhân lực. Xây dựng và vận hành hệ thống thông tin thị trường lao động, cơ sở dữ liệu quốc gia về thị trường lao động. Nâng cao năng lực dự báo, kế hoạch hóa NNL dựa trên các tín hiệu của thị trường lao động trong nước và thế giới để từ đó mở rộng các hình thức đào tạo nghề đối với công nghệ mới.

2.3.3. Đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

 Đổi mới hệ thống các trường đại học, cao đẳng và các  sở giáo dục, đào tạo nghề theo hướng có sựliên thông, ứng dụng khoa học - công nghệ cũng như nâng cao năng lực, chất lượng giáo dụcđào tạo của các  sở đào tạo. Theo đó cần đổi mới cơ chế quản lý của các trường theo hướng hiện đại, tinh gọn, hội nhập. Đặc biệt, đẩy mạnh phát triển các trường công lập, chuyển dần một số hình thức trường tưthục thành trường công lập, hạn chế các trường bán công. Cùng với đó cần tăng cường hiện đại hóa cáctrường dạy nghềứng dụng khoa học, công nghệkỹ thuật hiện đại trong quá trình đào tạo nghề cho người lao động nhằm nâng cao chất lượng công nhân các ngành nghề được đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạo ở các cấp học theo hướng tiệm cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới. Việc đổi mới cần thực hiện theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chuẩn hóa  hội nhập quốc tếphù hợp với lứa tuổi, trình độ ngành, nghề của người lao động. Đồng thời, phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ  sáng tạo của người học. Cùng với đócần từng bước chuẩn hóa về  sở vật chất, kỹ thuật phục vụ giảng dạy và học tập ởcác cấp, các loại hình, trường lớp, có sự ưu tiên đầu tư tăng cường phương tiện hiện đại cho công việc dạy và học. Phát huy vai trò của các thiết chế giáo dục: nhà trường, gia đình, xã hội trong phát triển giáodục, qua đó xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và toàn diện, hiện đại, bảo đảm công bằng cơ hội học tập với tất cả mọi người, tạo điều kiện để toàn  hội học tập và học tập suốt đời để xây dựng NNLđáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế.

3. Kết luận

Thực tiễn cho thấy, NNL chất lượng cao có vị trí vô cùng quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Những chủ trương, chính sách phát triển NNL chất lượng cao thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng: Đội ngũ nhân lực được đào tạo bài bản, chính quy từ các cơ sở đào tạo có uy tín trong và ngoài nước; góp phần trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; bổ sung NNL khả năng tiếp cận nhanh kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến, năng động, có  duy đổi mới, có ý tưởng sáng tạo,…  bản đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, những tồn tại, hạn chế cũng đã và đang nảy sinh, ảnh hưởng tiêu cực đến vấn đề phát triển NNL chất lượng cao của thành phố hiện nay. Để nâng cao hiệu quả phát triển NNL chất lượng cao trọng thời gian tới, tác giả đề xuất một số giải pháp, bao gồm: 1) Hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút, tuyển dụng NNL chất lượng cao; 2) Đổi mới và mở rộng hình thức, đối tượng thu hút NNL chất lượng cao; 3) Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng NNL; 4) Xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp; 5) Đổi mới chính sách lương, chế độ đãi ngộ. Thực hiện tốt và đồng bộ những giải pháp trên sẽ góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của đất nước trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

 

Tài liệu tham khảo

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[4] Đỗ Thị Tâm (2024), Chiến lược và chính sách phát triển nguồn nhân lực của Hàn Quốc - Kinh nghiệm cho Việt Nam, https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/01/18/chien-luoc-va-chinh-sach-phat-trien-nguon-nhan-luc-cua-han-quoc-kinh-nghiem-cho-viet-nam, ngày 18/01/2024, tr. 15.

[5] Nguyễn Thành Chung (2023), Vai trò của nguồn nhân lực số trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Thông tin và Truyền thông, tháng 7, tr. 56.

 

Bình luận

Để lại một bình luận

Tìm kiếm

Điện thoại liên hệ: 024 62946516