Đăng nhập

Top Panel
Trang nhấtGiáo dụcRANH GIỚI GIỮA TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ VÀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG SẢN XUẤT VÀ BUÔN BÁN HÀNG GIẢ

RANH GIỚI GIỮA TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ VÀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG SẢN XUẤT VÀ BUÔN BÁN HÀNG GIẢ

Thứ bảy, 23 Tháng 8 2025 02:17

NGUYỄN ĐĂNG KHOA

Khoa Luật và Quản lý nhà nước, Trường Đại học Thái Bình Dương

Tóm tắt:

Tình trạng sản xuất, buôn bán hàng giả hiện nay tại Việt Nam đang diễn ra rất phổ biến và ngày càng tinh vi thông qua các trang mạng xã hội, các sàn thương mại điện tử cũng như hệ thống phân phối hàng hoá truyền thống. Hoạt động này gây thiệt hại nghiêm trọng cho người tiêu dùng, doanh nghiệp và nền kinh tế. Khi có vi phạm, cần phân định rõ trách nhiệm dân sự (sau đây viết tắt thành TNDS)trách nhiệm hình sự (sau đây viết tắt thành TNHS) của các đối tượng liên quan. Tuy nhiên, việc xác định ranh giới giữa hai loại trách nhiệm này còn nhiều vướng mắc pháp lý. Bài viết tập trung phân tích vấn đề và kiến nghị hoàn thiện pháp luật để xử lý hiệu quả hơn.

Từ khóa: TNDS, TNHS, sản xuất và buôn bán hàng giả, Bộ luật Hình sự.

Abstract:

The current situation of counterfeit production and trade in Vietnam is very common and increasingly sophisticated through social networking sites, e-commerce platforms as well as traditional goods distribution systems. This activity causes serious damage to consumers, businesses and the economy. When there is a violation, it is necessary to clearly distinguish the civil and criminal responsibilities of the related subjects. However, determining the boundaries between these two types of responsibilities still has many legal problems. The article focuses on analyzing the problem and making recommendations to improve the law for more effective handling.

Keywords: civil liability, criminal liability, counterfeit production and trade, Penal Code.

Đặt vấn đề:

Tình trạng sản xuất, buôn bán hàng giả tại Việt Nam ngày càng phức tạp, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến người tiêu dùng, doanh nghiệp và nền kinh tế. Năm 2024, trị giá hàng hóa vi phạm lên tới 425 tỷ đồng, tăng 23% so với năm 2023. Trong 4 tháng đầu năm 2025, cơ quan chức năng xử lý hơn 34.000 vụ, khởi tố gần 1.400 vụ với hơn 2.100 đối tượng. Các con số cho thấy tình trạng vi phạm tràn lan, gia tăng và chưa có dấu hiệu dừng lại. Tuy nhiên, việc xử lý còn gặp nhiều vướng mắc do thiếu quy định rõ ràng trong phân định trách nhiệm pháp lý. Mỗi vụ việc có mức độ nguy hiểm khác nhau, đòi hỏi xác định chính xác TNDS hay hình sự. Bài viết sẽ tập trung phân tích cơ sở pháp lý và ranh giới giữa hai loại trách nhiệm này để có hướng xử lý phù hợp.

I. Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về TNDS và TNHS trong sản xuất và buôn bán hàng giả

1. Khái niệm và bản chất TNDS trong sản xuất và buôn bán hàng giả

Trách nhiệm pháp lý dân sự là loại trách nhiệm pháp luật do Tòa án hoặc các chủ thể khác áp dụng đối với những chủ thể vi phạm pháp luật dân sự. Đây chính là việc áp dụng chế tài dân sự, chủ yếu là bồi thường thiệt hại trong hoặc ngoài hợp đồng[1]. Trong lĩnh vực sản xuất, buôn bán hàng giả, TNDS được hiểu là nghĩa vụ pháp lý của cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng giả phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra cho người tiêu dùng, doanh nghiệp hoặc chủ thể liên quan.

Theo Điều 584 BLDS 2015, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi có đủ ba căn cứ: (i) có hành vi trái pháp luật, (ii) thiệt hại thực tế xảy ra, (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại.

Thứ nhất, hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là hành vi trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, doanh nghiệp. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2023 (Điều 8, 44) và Luật Sở hữu trí tuệ (Điều 198, 202) đều quy định rõ quyền yêu cầu bồi thường khi bị xâm phạm.

Thứ hai, thiệt hại thực tế do hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần[2]. Về vật chất, đó là tổn thất tài sản, chi phí ngăn chặn, khắc phục, thu nhập bị mất hoặc giảm sút. Về tinh thần, đó là sự tổn thất do sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy tín bị xâm phạm, cần được bù đắp bằng tiền.

Thứ ba, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại. Nghĩa là, thiệt hại phải là kết quả tất yếu từ hành vi xâm phạm. Chẳng hạn, người tiêu dùng ngộ độc do dùng thực phẩm giả chính là hậu quả trực tiếp từ hành vi sản xuất hàng giả.

2. Khái niệm và bản chất TNHS trong sản xuất và buôn bán hàng giả

TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý, phát sinh khi cá nhân hoặc pháp nhân thương mại có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi và được quy định là tội phạm trong Bộ luật Hình sự. Chủ thể phải chịu TNHS sẽ bị Tòa án áp dụng hình phạt hoặc biện pháp tư pháp theo quy định pháp luật nhằm trừng phạt, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Trong lĩnh vực sản xuất, buôn bán hàng giả, TNHS được coi là công cụ pháp lý giúp bảo vệ trật tự quản lý kinh tế, quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng đồng thời bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế thị trường.

Theo nguyên tắc của Điều 2 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, năm 2025) (sau đây gọi tắt là BLHS 2015) chỉ người nào thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định trong Bộ luật Hình sự mới phải chịu TNHS.

Đầu tiên, tội sản xuất, buôn bán hàng giả là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả đã xâm hại trực tiếp đến quyền lợi của người tiêu dùng, trật tự quản lý kinh tế và sức khỏe cộng đồng. Cụ thể là các Điều 192, Điều 193, Điều 194, Điều 195 BLHS 2015.

Tiếp theo, tội sản xuất, buôn bán hàng giả có lỗi cố ý trực tiếp. Nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả nhưng vẫn mong muốn thực hiện vì lợi ích bất chính.

Cuối cùng, tội sản xuất, buôn bán hàng giả được quy định trong BLHS 2015. Đây là cơ sở pháp lý trực tiếp xác định hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là tội phạm và làm phát sinh TNHS đối với chủ thể vi phạm.

Về mục đích của TNHS, khác với TNDS mang tính chất bồi thường, TNHS hướng đến mục đích trừng phạt và răn đe. Theo Điều 31 Hiến pháp 2013 và các nguyên tắc xử lý tội phạm tại Điều 3 BLHS 2015, việc áp dụng TNHS nhằm trừng phạt người phạm tội tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi.

3. Hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả dưới góc nhìn pháp lý

3.1. Quy định của pháp luật về hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả

Hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả bao gồm hàng giả về nội dung và hàng giả về hình thức[3]. Căn cứ vào Điều 192 BLHS 2015 về tội sản xuất, buôn bán hàng giả và Điều 8 BLHS 2015 quy định về khái niệm hình phạt, thì tội buôn bán hàng giả có các dấu hiệu chung của tội phạm. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, hành vi buôn bán hàng giả có tính nguy hiểm cho xã hội.

Muốn xã hội phát triển thì cần có một nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và xã hội bằng việc cung cấp một lượng hàng hóa đa dạng về chủng loại, chất lượng, kiểu dáng và mẫu mã. Tuy nhiên, chính mục tiêu phát triển nhanh về nền kinh tế thị trường nên nhiều cá nhân, tổ chức đã lợi dụng để sản xuất và buôn bán hàng giả. Bên cạnh đó, buôn bán, sản xuất hàng giả còn ảnh hưởng đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, làm thiệt hại lớn về kinh tế, chính trị - xã hội.

Thứ hai, hành vi buôn bán hàng giả mang tính trái pháp luật hình sự và người vi phạm phải chịu hình phạt.

Một hành vi sở dĩ bị quy định trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu TNHS vì nó có tính nguy hiểm cho xã hội do đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ[4]. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Luật hình sự do Tòa án áp dụng nhân danh Nhà nước áp dụng đối với người thực hiện tội phạm, tước bỏ những quyền và lợi ích nhất định của người bị kết án nhằm trừng trị, cải tạo, giáo dục người phạm tội và ngăn ngừa tội phạm[5].

Như vậy, tội sản xuất, buôn bán hàng giả được quy định đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế và được quy định trong Bộ luật hình sự. Do người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện nhằm thu lợi bất chính và bị đe dọa áp dụng chế tài hình sự theo quy định của pháp luật hiện hành.

Ngoài Điều 192 BLHS 2015 liên quan đến tội sản xuất, buôn bán hàng giả, pháp luật hình sự còn quy định các tội danh có tính chất đặc thù liên quan đến hàng giả ở các điều khoản tiếp theo. Đó là các Điều 193 BLHS có đối tượng tác động là hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm[6], Điều 194 BLHS: Hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh[7], Điều 195 BLHS: Hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi[8].

3.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất, buôn bán hàng giả

Điều 192 BLHS 2015 quy định về tội sản xuất, buôn bán hàng giả có 4 yếu tố cấu thành tội danh này.

Về mặt khách thể của tội phạm, đây là tội xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế. Đối tượng tác động là hàng giả, bao gồm[9]: (1) hàng hóa có giá trị sử dụng, công dụng không đúng với nguồn gốc bản chất tự nhiên, tên gọi của hàng hóa; (2) hàng hóa không có giá trị sử dụng, công dụng hoặc có giá trị sử dụng, công dụng không đúng so với giá trị sử dụng, công dụng đã công bố hoặc đăng ký

Về mặt khách quan của tội phạm, được thể hiện qua hành vi, mục đích và hậu quả. Về hành vi được thể hiện như sau: (1) Sản xuất hàng giả là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động chế tạo, chế bản, in ấn, gia công, đặt hàng, sơ chế, chế biến, chiết xuất, tái chế, lắp ráp, pha trộn, sang chiết, nạp, đóng gói và hoạt động khác làm ra hàng hóa giả; (2) Buôn bán hàng giả là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động chào hàng, bày bán, lưu giữ, bảo quản, vận chuyển, bán buôn, bán lẻ, xuất khẩu, nhập khẩu và hoạt động khác đưa hàng hóa giả vào lưu thông. Trường hợp người buôn bán không biết hàng hóa mà mình đang kinh doanh là hàng giả thì không cấu thành tội phạm[10]. Về mục đích, sản xuất, buôn bán hàng giả nhằm thu lợi bất chính và động cơ là vụ lợi. Về hậu quả, sản xuất, buôn bán hàng giả gây thiệt hại về vật chất lẫn phi vật chất cho xã hội.

Về mặt chủ thể của tội phạm, chủ thể là bất cứ ai có khả năng chịu TNHS và độ tuổi từ đủ 16 tuổi trở lên hoặc pháp nhân thương mại đủ các điều kiện chịu TNHS quy định tại khoản 5 Điều 175 BLHS 2015.

Về mặt chủ quan của tội phạm, tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi sản xuất, buôn bán hàng giá của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vì vụ lợi nên vẫn thực hiện.

II. Phân tích ranh giới giữa TNDS và hình sự trong sản xuất và buôn bán hàng giả

Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả có thể làm phát sinh TNDS, TNHS hoặc đồng thời cả hai trách nhiệm pháp lý này. Tuy nhiên, giữa hai loại trách nhiệm này có sự khác biệt cơ bản, được xác định dựa trên một số tiêu chí cụ thể như sau:

Một là, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi.

Đối với TNDS, khi hành vi buôn bán, sản xuất hàng giả gây ra thiệt hại thực tế cho cá nhân, tổ chức trong quan hệ dân sự, thương mại. Chẳng hạn, người tiêu dùng mất tiền mua phải hàng giả hoặc doanh nghiệp bị xâm hại uy tín, thương hiệu. Theo Điều 584 BLDS 2015, chỉ cần có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thì chủ thể vi phạm phải bồi thường.

Đối với TNHS, phát sinh khi hành vi đạt đến mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội, đe dọa trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế, sức khỏe, tính mạng con người. BLHS 2015 đã liệt kê các điều 192 – 195 để quy định các tội danh liên quan đến sản xuất, buôn bán hàng giả cho thấy tính chất đặc biệt nghiêm trọng của nhóm hành vi này.

Hai là, ý chí chủ quan của người thực hiện hành vi.

Dấu hiệu thuộc mặt chủ quan trong các vi phạm pháp luật bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích.[11] Tuy nhiên, động cơ, mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc của TNDS trong cấu thành vi phạm. Theo quy định tại Điều 584 BLDS 2015, lỗi không còn là yếu tố bắt buộc đối với TNDS, người gây thiệt hại có thể phải bồi thường ngay cả khi không có lỗi. Còn đối với TNHS lỗi là yếu tố bắt buộc phải có trong cấu thành của hành vi vi phạm, tuy nhiên khi giải quyết vụ án hình sự các cơ quan tư pháp cần xác định rõ hình thức của lỗi (lỗi cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp, vô ý vì quá tự tin, vô ý do cẩu thả). Trong vụ án hình sự hình thức của lỗi ảnh hưởng lớn đến việc định tội danh và quyết định hình phạt[12].

Ba là, giá trị thiệt hại, hậu quả thực tế.

TNDS ít nguy hiểm cho xã hội hơn TNHS nên mức độ xử lý nhẹ hơn, chỉ phát sinh khi có thiệt hại thực tế cần bồi thường (theo Điều 589 - 692 BLDS 2015). TNHS được xác định dựa trên giá trị, tính chất hàng giả và hậu quả gây ra. Với hàng giả là thuốc, thực phẩm, phụ gia thực phẩm, hành vi có thể bị truy cứu ngay cả khi chưa gây hậu quả (Điều 193, 194 BLHS 2015).

Bốn là, căn cứ pháp lý điều chỉnh cụ thể (TNDS mang tính khôi phục, hình sự mang tính trừng phạt).

TNDS được điều chỉnh chủ yếu bởi BLDS 2015, với bản chất khôi phục lại quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại và bù đắp những tổn thất thực tế. Điều này được thể hiện thông qua nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời tại theo quy định tại Điều 585 BLDS 2015.

Còn TNHS được điều chỉnh bởi BLHS 2015, với bản chất là sự cưỡng chế đặc biệt của Nhà nước. Mục đích không chỉ nhằm trừng phạt người phạm tội mà còn để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm như đã ghi nhận tại Điều 3 BLHS 2015.

III. Vướng mắc và kiến nghị giữa TNDS và hình sự trong sản xuất và buôn bán hàng giả

1. Vấn đề trong thực tiễn áp dụng

Các Tòa án nhân dân đã xét xử 197 vụ án trên tổng số 495 bị cáo đối với các hành vi vi phạm quy định tại Điều 192 Bộ luật Hình sự (cụ thể năm 2018 là 36 vụ án/61 bị cáo; năm 2019 là 42 vụ án/80 bị cáo; năm 2020 là 28 vụ án/64 bị cáo và năm 2021 là 37 vụ án/153 bị cáo; năm 2022 là 54 vụ án/137 bị cáo)[13]. Trước thực tiễn trên, chúng ta thấy rằng tội “sản xuất, buôn bán hàng giả” có xu hướng gia tăng, phản ánh mức độ phức tạp và tính chất nguy hiểm của loại tội phạm này. Cùng với đó là những khó khăn, bất cập trong thực tiễn áp dụng TNDS và hình sự trong sản xuất và buôn bán hàng giả. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, khó khăn lớn nhất hiện nay chính là việc xác định ranh giới giữa TNDS và TNHS trong các vụ án liên quan đến hàng giả khi thiệt hại chưa rõ ràng.

Để xác định tội phạm, trong những trường hợp nhất định nhà làm luật trên cơ sở các tiêu chí để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi sẽ xác định mức độ nguy hiểm đáng kể và quy định hành vi đó là tội phạm. Khi đó ranh giới giữa tội phạm với các vi phạm pháp luật khác sẽ được xác định dứt khoát[14]. Trong nhiều trường hợp, hàng giả bị phát hiện, thu giữ trên thị trường nhưng chưa có nạn nhân cụ thể đứng ra yêu cầu bồi thường hoặc chưa chứng minh được thiệt hại thực tế. Điều này khiến cơ quan tiến hành tố tụng lúng túng trong việc phân loại tính chất vụ việc: liệu chỉ xử lý dưới góc độ bồi thường dân sự hay phải truy cứu TNHS?

Thứ hai, thực tiễn xét xử cho thấy tồn tại tình trạng “hình sự hóa quan hệ dân sự”[15] hoặc ngược lại “dân sự hóa hành vi hình sự”. Khi chứng cứ, tài liệu về thiệt hại chưa rõ ràng, có thể xảy ra xu hướng đẩy vụ việc dân sự sang hình sự để tăng tính răn đe, hoặc ngược lại, hạ nhẹ tính chất vụ việc hình sự xuống chỉ còn bồi thường dân sự. Cả hai khuynh hướng này đều tiềm ẩn nguy cơ làm sai lệch bản chất pháp lý của vụ việc, ảnh hưởng đến tính công bằng và hiệu lực của pháp luật.

Chẳng hạn, bản án về tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ số 1284/2020/kDTM-ST của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: Nguyên đơn là Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ Xuất Nhập khẩu V (chủ nhãn hiệu “Yuki”); Bị đơn là Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ U. Nguyên đơn cho rằng bị đơn sản xuất, phân phối mỹ phẩm gắn dấu hiệu “Yuki” trái phép và yêu cầu chấm dứt, tiêu hủy, xin lỗi và bồi thường. Bị đơn phủ nhận xâm phạm và phản đối tiêu hủy hàng hóa. Tòa án tuyên chấp nhận một phần yêu cầu, buộc chấm dứt xâm phạm và xin lỗi công khai; không chấp nhận tiêu hủy do không chứng minh được số lượng, hiện trạng; không tuyên bồi thường vì thiếu chứng cứ thiệt hại. Hành vi này về bản chất là xâm phạm nhãn hiệu, có thể truy cứu TNHS nếu có đủ chứng cứ về số lượng, giá trị và lỗi cố ý. Tuy nhiên, do thiếu chứng cứ, vụ việc chỉ bị xử lý bằng chế tài dân sự. Đây là trường hợp “dân sự hóa” hành vi vốn có thể cấu thành tội phạm hình sự, khiến hiệu quả răn đe còn hạn chế.

Thứ ba, sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng[16] và cơ quan quản lý thị trường, cơ quan giám định chuyên môn vẫn chưa thực sự hiệu quả. Trong nhiều vụ án, việc trưng cầu giám định chất lượng hàng hóa, xác định nguồn gốc, giá trị thiệt hại còn chậm trễ, thiếu thống nhất, thậm chí có trường hợp kết quả giám định không đủ căn cứ phục vụ cho việc truy cứu TNHS. Điều này không chỉ làm kéo dài quá trình điều tra, truy tố, xét xử mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bị hại cũng như tính nghiêm minh của pháp luật.

2. Đề xuất hoàn thiện pháp luật

Thứ nhất, cần quy định rõ ràng hơn các tiêu chí định lượng và định tính trong việc xác định tội danh liên quan đến hàng giả. Hiện nay, Bộ luật Hình sự chủ yếu dựa vào giá trị hàng hóa hoặc số tiền thu lợi bất chính để làm căn cứ xử lý hình sự. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy việc xác định giá trị hàng giả, đặc biệt trong lĩnh vực thực phẩm, mỹ phẩm, dược phẩm, thường rất khó khăn và dễ dẫn đến bỏ lọt tội phạm. Bổ sung tiêu chí định tính như mức độ nguy hại cho sức khỏe cộng đồng, phạm vi ảnh hưởng đến uy tín thương hiệu hoặc tính chất tinh vi của hành vi sẽ giúp cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ hơn, đồng thời hạn chế tình trạng tùy tiện trong vụ việc dân sự lên hình sự hoặc ngược lại.

Thứ hai, cần thiết lập cơ chế xử lý TNDS trong khuôn khổ vụ án hình sự về hàng giả. Hiện nay, TNDS thường bị xem nhẹ, chỉ dừng lại ở yêu cầu bồi thường mang tính hình thức, trong khi thiệt hại về uy tín thương hiệu, chi phí khắc phục, mất thị phần của doanh nghiệp là rất lớn. Nếu pháp luật có quy định hướng dẫn chi tiết về cách xác định thiệt hại, phạm vi bồi thường cũng như các biện pháp khắc phục như buộc tiêu hủy hàng hóa, xin lỗi công khai, phục hồi uy tín thì bản án hình sự không chỉ dừng ở trừng phạt mà còn đảm bảo công bằng và khắc phục hậu quả một cách toàn diện.

Thứ ba, cần tăng cường phân cấp trong xử lý hành chính đối với hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả chưa đến mức truy cứu hình sự. Nhiều vụ việc hiện nay phải chờ cơ quan tố tụng hình sự ra quyết định, dẫn đến chậm trễ và để lọt vi phạm. Do đó, cần trao thêm thẩm quyền cho cơ quan có quyền xử phạt vi phạm hành chính để họ có thể kịp thời tạm giữ, xử phạt, buộc tiêu hủy hàng hóa vi phạm thì việc ngăn chặn hàng giả từ sớm sẽ hiệu quả hơn, đồng thời giảm tải cho cơ quan tố tụng hình sự.

KẾT LUẬN

Trong các dạng trách nhiệm pháp lý, TNDS và TNHS có nhiều điểm tương đồng nhưng TNHS nghiêm khắc hơn. Vì vậy, cần có ranh giới rõ ràng giữa hai lĩnh vực này trong xử lý hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. Hiện nay, ranh giới này vẫn mờ nhạt nếu thiếu tiêu chí định lượng và định tính cụ thể. Việc xác định đúng bản chất trách nhiệm giúp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo công bằng pháp luật và ngăn chặn hiệu quả tình trạng tái phạm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, năm 2025).
  2. Nghị định 98/2020/NĐ - CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
  3. Huỳnh Quang Mãi (2022), Tội buôn bán hàng giả theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
  4. Đại học quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
  5. Phan Thị Phương Hiền (2023), Hoàn thiện dấu hiệu pháp lý của nhóm hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), NXB Nhà nước và Pháp luật.
  6. Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung, NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.
  7. Bản án về tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ số 1284/2020/KDTM-ST của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
  8. Nguyễn Văn Chất, Phạm Thanh Phương (2023), Tội Sản xuất, buôn bán hàng giả và những bất cập, giải pháp, Tạp chí Tòa án nhân dân, xem thêm: <https://tapchitoaan.vn/toi-san-xuat-buon-ban-hang-gia-va-nhung-bat-cap-giai-phap8801.html?utm_source>.
  9. Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), Tội sản xuất, buôn bán hàng giả – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Tòa án nhân dân, xem thêm: <https://tapchitoaan.vn/index.php/toi-san-xuat-buon-ban-hanh-gia-nhung-van-de-ly-luan-va-thuc-tien?utm_source>.
  10. Uyên Nhi (2024), Pháp luật về hàng giả, hàng nhái và biện pháp bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp, người tiêu dùng, xem thêm: <https://danchuphapluat.vn/phap-luat-ve-hang-gia-hang-nhai-va-bien-phap-bao-ve-quyen-loi-doanh-nghiep-nguoi-tieu-dung-3293.html?utm_source>

[1] Hoàng Minh (2022), Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý có mối quan hệ thế nào?, Tạp chí Điện tử Luật sư Việt Nam, xem thêm: <https://lsvn.vn/vi-pham-phap-luat-va-trach-nhiem-phap-ly-co-moi-quan-he-the-nao1661972795-a123310.html>, truy cập ngày 20/8/2025.

[2] Điều 2 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

[3] Phan Thị Phương Hiền (2023), Hoàn thiện dấu hiệu pháp lý của nhóm hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), NXB Nhà nước và Pháp luật, tr.24.

[4] Huỳnh Quang Mãi (2022), Tội buôn bán hàng giả theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr.11.

[5] Đại học quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.136.

[6] Việc xác định hàng giả là lương thực, thực phẩm hay phụ gia thực phẩm được xác định theo điểm a, b khoản 7 Điều 3 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP.

[7] Xem thêm: khoản 33 Điều 2 Luật Dược năm 2016.

[8] Việc xác định hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi được xác định theo điểm a, b khoản 7 Điều 3 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP.

[9] Khoản 7 Điều 3 Nghị định 98/2020/NĐ - CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

[10] Đoàn Thị Ngọc Hải (2019), Tội sản xuất, buôn bán hàng giả – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Tòa án nhân dân, xem thêm: <https://tapchitoaan.vn/index.php/toi-san-xuat-buon-ban-hanh-gia-nhung-van-de-ly-luan-va-thuc-tien?utm_source>, truy cập ngày 25/8/2025.

[11] Nguyễn Thị Anh Thư (2017), Ranh giới giữa trách nhiệm hành chính và TNHS của pháp nhân thương mại, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng, số 2(111), tr.169.

[12] Nguyễn Thị Anh Thư (2017), tlđd (11), tr.169.

[13] Nguyễn Văn Chất, Phạm Thanh Phương (2023), Tội Sản xuất, buôn bán hàng giả và những bất cập, giải pháp, Tạp chí Tòa án nhân dân, xem thêm: <https://tapchitoaan.vn/toi-san-xuat-buon-ban-hang-gia-va-nhung-bat-cap-giai-phap8801.html?utm_source>, truy cập ngày 26/8/2025.

[14] Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung, NXB Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.118.

[15] Trên thực tế có Tranh chấp dân sự về vụ “đạo nhái” nhãn hiệu giữa Sabeco và bia Sài Gòn Việt Nam đến nay vẫn chưa có hồi kết khi cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đang bắt đầu hình sự hóa vụ kiện dân sự.

[16] Theo Khoản 1 Điều 34 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Cơ quan tiến hành tố tụng gồm: Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát; Tòa án.

Sửa lần cuối vào

Bình luận

Để lại một bình luận

Tìm kiếm

Điện thoại liên hệ: 024 62946516