Lê Văn Phú
Công ty Luật TNHH MTV Phú Lê
Abstract
Currently, land is considered one of the most stable and long-term ways of accumulating assets for people, expressed in land use rights. In the process of land use, there are many reasons for conflicts and land disputes, causing impacts and affecting the legitimate rights and interests of the people in particular and the economic development of the country in general. Because land is owned by the entire people and the state represents the owner, the settlement of land disputes is carried out by competent state agencies. The court is considered a judicial agency, resolving civil disputes, including land disputes. The 2015 Civil Procedure Code (CPC) and the 2013 Land Law are legal documents regulating the settlement of land disputes by the court. At the same time, within the scope of the article, the author only analyzes the practical application of land dispute resolution by court at the People's Court (TAND) of Ho Chi Minh City.
Keywords: land dispute, land dispute resolution, people's court, jurisdiction.
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, đất đai được xem là một trong các phương thức tích lũy tài sản lâu dài và vững chắc nhất đối với người dân được thể hiện dưới quyền sử dụng đất. Trong quá trình sử dụng đất, có rất nhiều nguyên nhân làm xuất hiện những mâu thuẫn, tranh chấp đất đai, gây ra những tác động, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của người dân nói riêng và tới sự phát triển kinh tế của đất nước nói chung. Do đất đai thuộc sở hữu của toàn dân, nhà nước đại diện chủ sở hữu nên việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tòa án được xem là cơ quan tư pháp, giải quyết các tranh chấp dân sự, trong đó có tranh chấp đất đai. Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 và Luật Đất đai năm 2013 là các văn bản có giá trị pháp lý điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án. Đồng thời, trong phạm vi bài viết tác giả chỉ phân tích thực tiễn áp dụng giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án tại Tòa án nhân dân (TAND) Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Thực tiễn pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
2.1. Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Theo Điều 203 Luật Đất đai năm 2013, có hai hệ thống cơ quan có thẩm quyền chịu trách nhiệm giải quyết tranh chấp đất đai là hệ thống cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân các cấp) và hệ thống cơ quan quản lý nhà nước (Ủy ban nhân dân các cấp). Các văn bản hướng dẫn thi hành phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai là giấy tờ pháp lý của đất tranh chấp mà đương sự có và tài sản gắn liền với đất.
Việc quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho tòa án khi loại đất tranh chấp mà các bên chưa có bất cứ loại giấy tờ gì là đã trao vượt quá chức năng, thẩm quyền của tòa án. Theo đó, tòa án chỉ có quyền xác định ai là người có quyền dân sự đang bị người khác tranh chấp. Tuy nhiên, theo quy định mới tòa án lại có thêm quyền xác định ai được quyền sử dụng đất chưa có căn cứ pháp luật, chưa được công nhận về pháp lý mà vốn dĩ thuộc thẩm quyền của cơ quan quản lý nhà nước.
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì chỉ những tài sản đã thuộc quyền sở hữu hợp pháp của một chủ thể, nay có chủ thể khác xâm phạm, tranh chấp thì tòa án căn cứ vào tài liệu chứng cứ để xác định thực chất tài sản đó là của chủ thể nào thì công nhận cho chủ thể đó, buộc bên đang chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho bên có quyền. Tòa án không có thẩm quyền xác định tài sản tranh chấp (đất đai) cho bất cứ chủ thể nào khi đất đai chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chủ thể đó sử dụng. Việc giao thẩm quyền giải quyết cho tòa án trong trường hợp này là không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của tòa án, là trái quy định Hiến pháp và mâu thuẫn với chính quy định của Luật Đất đai về tính thống nhất trong quản lý đất đai.
2.2. Thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai
Theo Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành, khái niệm tranh chấp đất đai là khái niệm rộng bao hàm tất cả các tranh chấp phát sinh trong quan hệ đất đai như tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp về tài sản gắn liền với đất, tranh chấp liên quan đến địa giới… Mọi tranh chấp đất đai bao gồm cả tranh chấp tài sản gắn liền với đất và tranh chấp trong quá trình thực hiện các giao dịch liên quan đến chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho, thừa kế… đều phải qua thủ tục hòa giải và phải được Ủy ban nhân dân cấp xã giải quyết trước khi vụ việc được giải quyết tại Tòa án hoặc tại Ủy ban nhân dân cấp quận, huyện.
Trên thực tế, một vấn đề đặt ra là Ủy ban nhân dân cấp xã có đủ năng lực và trình độ để đứng ra hòa giải, giải quyết mọi tranh chấp đất đai hay không? Nếu Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn không tổ chức hòa giải hoặc không hòa giải theo yêu cầu của các bên tranh chấp, thì các bên tranh chấp sẽ mất quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi cho mình cho dù về bản chất, các tranh chấp về tài sản gắn liền với đất này hoàn toàn là tranh chấp dân sự thuần túy.
Mặt khác, việc Ủy ban nhân dân cấp xã đứng ra giải quyết các tranh chấp đất đai như quy định của pháp luật là hầu như không có hiệu quả và không thể giải quyết được. Trong tổ chức bộ máy nhà nước, việc các cơ quan quản lý nhà nước đứng ra giải quyết các tranh chấp về tài sản và quyền tài sản sẽ không đúng thẩm quyền và không phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội.
Chính vì vậy, những quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã gây ra nhiều khó khăn cho các bên tranh chấp trong quá trình giải quyết, một mặt tạo ra những kẽ hở pháp lý và là mầm mống cho các hoạt động tiêu cực của những người có thẩm quyền trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai.
Tranh chấp đất đai có thể được giải quyết theo hai phương thức: (i) Khởi kiện tại tòa án có thẩm quyền; (ii) Khiếu nại lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, tương ứng với mỗi phương thức giải quyết tranh chấp đất đai thì quy trình và thủ tục giải quyết cũng khác nhau. Trước hết, dù theo con đường tố tụng tại tòa án hoặc thủ tục giải quyết tại cơ quan hành chính nhà nước thì thủ tục hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp là thủ tục và điều kiện bắt buộc. Bên cạnh đó, Luật Đất đai năm 2013 còn quy định khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải tại cơ sở, nếu không hòa giải được thì gửi đơn đến UBND cấp xã nơi có đất để tiến hành hòa giải. Theo quy định tại Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 và khoản 1 Điều 88 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013, Chủ tịch UBND cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình với thành phần Hội đồng hòa giải cấp xã gồm: Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND là Chủ tịch Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn; tổ trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng thôn, ấp đối với khu vực nông thôn; đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó; công chức địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi trường (đối với xã), công chức Tư pháp –Hộ tịch xã, phường, thị trấn. Tùy từng trường hợp cụ thể, có thể mời đại diện Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai được UBND cấp xã thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai. Việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của UBND cấp xã. Biên bản hòa giải được gửi đến các bên tranh chấp, lưu tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp. Đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người sử dụng đất thì UBND cấp xã gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài nguyên và Môi trường đối với trường hợp tranh chấp đất giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; Sở Tài nguyên và Môi trường đối với các trường hợp khác để trình UBND cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Thứ hai, trách nhiệm của UBND cấp xã khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai. Sau khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai của các bên đương sự, UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp phải thực hiện các thủ tục sau: (1) Thẩm tra, xác minh tìm hiểu nguyên nhân phát sinh tranh chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu có liên quan do các bên cung cấp về nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất và hiện trạng sử dụng đất; (2) Thành lập hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai để thực hiện hòa giải; (3) Tổ chức cuộc họp hòa giải có sự tham gia của các bên tranh chấp, thành viên Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Việc hòa giải chỉ được tiến hành khi các bên tranh chấp đều có mặt, trường hợp một trong các bên tranh chấp vắng mặt đến lần thứ hai thì được coi là hòa giải không thành; (4) Kết quả hòa giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản, gồm có các nội dung: (i) Thời gian và địa điểm tiến hành hòa giải; (ii) Thành phần tham dự hòa giải; (iii) Tóm tắt nội dung tranh chấp thể hiện rõ về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất đang tranh chấp, nguyên nhân phát sinh tranh chấp (theo kết quả xác minh, tìm hiểu); (iv) Ý kiến của Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai; (v) Những nội dung đã được các bên tranh chấp thỏa thuận, không thỏa thuận; (vi) Biên bản hòa giải phải có chữ ký của Chủ tịch Hội đồng, các bên tranh chấp có mặt tại buổi hòa giải, các thành viên tham gia hòa giải và phải đóng dấu của UBND cấp xã; đồng thời phải được gửi ngay cho các bên tranh chấp và lưu tại UBND cấp xã. Sau khi tiến hành hòa giải, các bên có ý kiến phát sinh thì sau thời hạn 10 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà các bên tranh chấp có ý kiến bằng văn bản về nội dung khác với nội dung đã thống nhất trong biên bản hòa giải thành, thì Chủ tịch UBND cấp xã tổ chức lại cuộc họp Hội đồng hòa giải để xem xét giải quyết đối với ý kiến bổ sung và phải lập biên bản hòa giải thành hoặc không thành; Đối với trường hợp hòa giải không thành hoặc sau khi hòa giải thành, mà có ít nhất một trong các bên thay đổi ý kiến về kết quả hòa giải: UBND cấp xã lập biên bản hòa giải không thành và hướng dẫn các bên tranh chấp gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp tiếp theo. Đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người sử dụng đất thì UBND cấp xã gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài nguyên và Môi trường đối với trường hợp tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi đến Sở Tài nguyên và Môi trường đối với các trường hợp khác.
3. Áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
3.1. Những ưu điểm
Về chất lượng xét xử: TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng đúng đắn và thống nhất các quy định của Luật Đất đai năm 2013, Bộ luật Dân sự 2015, các văn bản pháp luật khác về đất đai, các hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao trong công tác thụ lý, xét xử các vụ án về tranh chấp đất đai và các tranh chấp khác liên quan đến đất đai. Đường lối xét xử các tranh chấp về quyền sử dụng đất được các thẩm phán tuân thủ và áp dụng tương đối tốt. Chất lượng giải quyết ngày một nâng cao, góp phần quan trọng vào việc ổn định trật tự, an toàn xã hội, phát triển kinh tế, bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được Nhà nước giao đất, bảo vệ các giao dịch dân sự hợp pháp về đất đai trong đời sống xã hội. Phần lớn các bản án, quyết định của Toà án thụ lý giải quyết án tranh chấp đất đai là đúng thẩm quyền, có căn cứ pháp luật, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, được nhân dân đồng tình, dư luận xã hội ủng hộ và bảo đảm hiệu lực thi hành.
Về số lượng xét xử: TAND Thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị thụ lý, giải quyết một lượng án khá lớn, trong những năm trở lại đây, số lượng các loại án dân sự thụ lý trung bình hàng năm như sau: “Tính từ 01/10/2019 đến ngày 30/9/2022, TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý giải quyết 582/594 vụ án dân sự. Trong đó án dân sự liên quan đến đất đai là 187 vụ, chiếm tỷ lệ 31.5%” [8].
3.2. Những vướng mắc
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án tranh chấp đất đai, TAND Thành phố Hồ Chí Minh còn gặp một số khó khăn, vướng mắc như sau:
Thứ nhất, những vướng mắc liên quan đến hệ thống pháp luật: Pháp luật chưa thật thống nhất, đồng bộ giữa Luật, Nghị định, Pháp lệnh cùng với các văn bản pháp luật của các ngành liên quan như Luật Xây dựng, Luật Nhà ở,... Trong khi số lượng các vụ án mà TAND phải thụ lý, giải quyết ngày càng tăng, tính chất vụ việc ngày càng phức tạp thì các văn bản tuy đã hết hiệu lực nhưng vẫn còn được áp dụng để giải quyết một số vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất tùy thuộc vào thời điểm xảy ra tranh chấp và tình tiết của vụ án đã khiến việc áp dụng pháp luật gặp nhiều khó khăn hơn. Bên cạnh đó, có quá nhiều văn bản hướng dẫn thi hành bất cập về cả số lượng lẫn nội dung mâu thuẫn chồng chéo với văn bản gốc, với các văn bản khác về cùng một vấn đề điều chỉnh. “Vấn đề này mặc dù đã được khắc phục đáng kể, tuy nhiên vẫn còn tồn tại trong và giữa các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai trong thời gian qua” [7, tr. 50].
Thứ hai, vướng mắc khi áp dụng quy định của Điều 202 Luật Đất đai 2013 về hòa giải tranh chấp đất đai. Theo quy định pháp luật, kết quả hòa giải phải được lập thành biên bản, có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa giải thành hoặc không thành của UBND cấp xã. Tuy nhiên, khi UBND cấp xã triệu tập các bên để hòa giải trong nhiều trường hợp phía bị đơn không đến khiến UBND không thể tiến hành hòa giải được. Lúc này, nếu UBND có lập biên bản không tiến hành hòa giải được do bị đơn không đến thì chưa có quy định cụ thể về việc biên bản đó có được coi là biên bản hòa giải không thành hay không.
4. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án
Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai, hiện nay. Tuy Quốc Hội đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật về đất đai nhưng các quy định còn tản mạn, chồng chéo, thiếu sự thống nhất. Do đó, cần giao nhiệm vụ cho các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu soạn thảo và ban hành các quy phạm pháp luật về đất đai cho phù hợp với điều kiện phát triển mới của đất nước. Đây là một phương diện rất quan trọng bởi lẽ khi xây dựng được một hệ thống pháp luật cả về nội dung và hình thức đầy đủ, cụ thể và có chất lượng thì đó là cơ sở pháp lý để Tòa án nhân dân áp dụng pháp luật, thi hành pháp luật đúng đắn, thống nhất và có hiệu quả cao. Cụ thể, khi bàn về việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai; BLTTHS hiện hành, có những quan điểm khác nhau về chế định “Hòa giải tranh chấp đất đai” [4; tr6].
Thứ hai, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Trong mọi công việc, vấn đề cán bộ - con người là nhân tố quan trọng, trung tâm và “động” nhất của mọi lĩnh vực. Trong hoạt động thụ lý, giải quyết vụ án tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân thì chủ thể áp dụng pháp luật là Thẩm phán. Do vậy, đòi hỏi cán bộ Tòa án nói chung, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết xã hội rộng, kỹ năng thuần thục và đạo đức nghề nghiệp trong sáng trong việc áp dụng pháp luật nhằm bảo vệ công lý, mang lại sự công bằng, đảm bảo xã hội được ổn định và phát triển.
Thứ ba, tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tòa án nhân dân: Việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ toà án nhân dân, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán là một trong những khâu then chốt để bảo đảm công tác giải quyết các tranh chấp đất đai đạt hiệu quả cao. Trong thời gian qua Toà án nhân dân tối cao tuy có tổ chức một số lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký toà án về một số chuyên đề cụ thể, song chưa có chuyên đề sâu về loại việc tranh chấp về đất đai. Mặt khác loại việc này có xu hướng ngày càng gia tăng về số lượng, phức tạp về tính chất, chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong tổng số các vụ việc về dân sự nói chung mà Toà án nhân dân thụ lý, giải quyết hàng năm. “Do nhiều lý do khác nhau, nên Toà án nhân dân tối cao chưa tiến hành việc tổng kết công tác xét xử loại việc nêu trên một cách đầy đủ làm cơ sở cho việc xây dựng đường lối giải quyết loại việc tranh chấp về đất đai và xây dựng cơ sở cho việc bồi dưỡng, tập huấn về chuyên đề quan trọng này” [6; tr.47].
Thứ tư, tăng cường công tác tổng kết, rút kinh nghiệm, tăng cường sự phối hợp giữa Tòa án các cấp trong hoạt động thụ lý tranh chấp đất đai. Công tác tổng kết, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng thụ lý, xét xử và thống nhất áp dụng pháp luật là một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành Toà án.
Thứ năm, thông qua trang thông tin điện tử nhằm đăng tải công khai bản án, quyết định của Tòa án, tạo diễn đàn phổ biến trao đổi nghiệp vụ áp dụng pháp luật trong việc thụ lý, giải quyết xét xử án dân sự trong đó có án tranh chấp về đất đai là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay để đảm bảo quy chế dân chủ, tính công khai, minh bạch, tính độc lập và tuân theo pháp luật cũng như sự giám sát của toàn dân đối với hoạt động thụ lý, giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân.
5. Kết luận
Tranh chấp đất đai ngày càng trở nên phổ biến, đặc biệt là tại các thành phố lớn. Tại TAND Thành phố Hồ Chí Minh, việc giải quyết tranh chấp về đất đai bằng tòa án trong thời gian vừa qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, góp phần giữ vững an ninh, chính trị, ổn định trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện để Thành phố Hồ Chí Minh có bước phát triển nhanh, bền vững tương xứng với tiềm năng và vị trí chiến lược của mình.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Luật Đất đai năm 2013.
[3] Lương Thị Bích Ngân, Một số vấn đề về hòa giải tranh chấp đất đai tại Việt Nam, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210774
[4] Lý Thị Ngọc Hiệp (2006), Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại tòa án nhân dân, Luận văn Thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh.
[5] Mai Thị Tú Oanh (2013), Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án ở nước ta, Luận án Tiến sỹ Luật học, Học viện Khoa học Xã hội.
[6] Nguyễn Văn Luật, Tưởng Duy Lượng (2011), Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân, Đề tài khoa học cấp bộ.
[7] Nguyễn Văn Luật (2013), Tranh chấp đất đai và thẩm quyền giải quyết của Tòa án, Đề tài khoa học cấp bộ.
[8] Nguyễn Văn Sơn (2021), Hòa giải tranh chấp đất đai và những khó khăn, vướng mắc trong công tác kiểm sát giải quyết vụ án tranh chấp đất đai, xem tại: http://vienkiemsatbrvt.gov.vn/portal/p/2318 (truy cập ngày 28/10/2021).
[9] Tưởng Duy Lượng, Những khó khăn, vướng mắc trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất và một vài kiến nghị, xem tại: https://www.tapchitoaan.vn/bai-viet/trao-doi-y-kien/tranh-chap-quyen-su-dung-dat-thua-ke-quyen-su-dung-dat-mot-loai-tranh-chap-phuc-tap-vi-sao
[10] Trần Anh Tuấn (2009), Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số tháng 7.