Đăng nhập

Top Panel
Trang nhấtPháp luậtPHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT

PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT

Thứ tư, 20 Tháng 8 2025 19:14

Lê Văn Phú
Công ty Luật TNHH MTV Phú Lê

Abstract
The 2015 Civil Code has inherited many advantages and is suitable for the current need to donate land use rights and assets attached to land. On the other hand, the contract to donate land use rights and assets attached to land is also regulated by the law on land, because this is an important source of production materials, a driving force and a solid foundation for economic and social development. In practice, when participating in a contract to donate land use rights and assets attached to land, the parties often rely on habits, customs, etc., without studying and paying much attention to legal regulations governing related issues such as: Subjects and objects of the contract, form and time when the contract takes effect, etc. Therefore, if the parties do not reach an agreement or the conditions for establishing the contract are not guaranteed, the contract will not be concluded or the content of the donation contract is unclear and not tight, which will be the direct cause of disputes arising later.
Keywords: Contract, dispute, land dispute, land donation, inheritance.

1. Đặt vấn đề

Hợp đồng dân sự xuất hiện nhiều trong các lĩnh vực đời sống xã hội của con người. Tặng cho tài sản là một trong những giao dịch dân sự nói chung và hợp đồng dân sự nói riêng diễn ra phổ biến trong đời sống xã hội. Mặc dù vậy nhưng vẫn còn không ít các chủ thể chưa xác định đúng hoặc không hiểu rõ về các đặc điểm pháp lý của loại hợp đồng tặng cho nhất là đối với hợp đồng tặng cho có điều kiện. Trong đời sống xã hội, việc tặng cho bao gồm cả việc tặng cho tài sản giữa cá nhân với cá nhân và việc tặng cho người khác tài sản hợp pháp của mình là chuyện bình thường. Về mặt pháp luật, việc tặng cho tài sản có thể bằng hình thức hợp đồng, cũng có thể là hành vi pháp lý đơn phương của chủ sở hữu tài sản làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự đối với bên tặng cho tài sản và đối với bên nhận tài sản tặng cho. Tài sản tặng cho, có thể là bất động sản hoặc là động sản. Trường hợp đồng tặng cho tài sản được lập thành văn bản thì gọi là hợp đồng tặng cho tài sản (HĐTCTS). HĐTCTS lại có hai trường hợp khác nhau, gồm: HĐTCTS có điều kiện và HĐTCTS không có điều kiện. Trong phạm vi bài viết này, tác giả bàn về thực tiễn pháp luật về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.

2. Nội dung

Hiện nay, có rất nhiều quan điểm về khái niệm quyền sử dụng đất ở nước ta hiện nay. Trong cuốn sách: “Sự hình thành và phát triển thị trường bất động sản trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam”, tác giả Lê Xuân Bá xác định: “Quyền sử dụng đất là bộ phận cấu thành của quyền sở hữu đất, ngoài quyền thì người sử dụng đất còn có các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật” [54]. Trong khi, các tác giả khác đều cho rằng: Quyền sử dụng đất là quyền khai thác, hưởng hoa lợi, lợi ích từ việc sử dụng đất. Chẳng hạn như: Tác giả của cuốn từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa và Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2006 xác định: Quyền sử dụng đất là quyền của các chủ thể được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi ích từ việc sử dụng đất được nhà nước giao, cho thuê hoặc được chuyển giao từ những chủ thể khác thông qua việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho...

Các quyền năng của người sử dụng đất như để lại thừa kế, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất là các quyền phái sinh, phụ thuộc vào quyền sử dụng đất.”

Trong Luận án tiến sĩ Luật học: “Pháp luật về chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong kinh doanh bất động sản ở Việt Nam” năm 2012, Đại học Luật Hà Nội của tác giả Nguyễn Thị Hồng Nhung lại nhìn nhận quyền sử dụng đất ở hai góc độ. Dưới góc độ kinh tế thì quyền sử dụng đất là quyền khai thác các lợi ích từ đất của các tổ chức, hộ gia đình cá nhân sử dụng đất. Dưới góc độ pháp lý thì quyền sử dụng đất là những quyền năng mà Nhà nước thông qua công cụ pháp lý để quy định, thừa nhận cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân (người sử dụng đất) được hưởng, được làm trong quá trình sử dụng đất [23].

Vì vậy, theo tác giả quyền sử dụng đất là một loại tài sản ở dạng quyền tài sản đặc biệt của một chủ thể nhất định mà giá trị của tài sản này chính là giá trị khai thác công dụng của đất được xác định bằng tiền đối với một diện tích đất nhất định trong thời hạn sử dụng đất nhất định trong đó chủ sở hữu đất đai là Nhà nước và chủ sở hữu quyền sử dụng là người sử dụng đất.

2.1.2 Phân biệt quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

Hiện pháp luật không đưa ra định nghĩa thế nào là tài sản gắn liền với đất mà chỉ liệt kê các loại tài sản gắn liền với đất.

Theo Điều 104 Luật Đất đai 2013, tài sản gắn liền với đất bao gồm: nhà ở, công trình xây dựng khác, rừng sản xuất là rừng trồng và cây lâu năm. Căn cứ khoản 1 Điều 107 Bộ luật dân sự 2015, có thể hiểu tài sản gắn liền với đất là bất động sản, bao gồm nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất và tài sản khác gắn liền với đất đai. Khoản 4 Điều 3 Nghị định 21/2021/NĐ-CP thì liệt kê các loại tài sản gắn liền với đất sau: nhà ở, công trình xây dựng thuộc dự án đầu tư xây dựng nhà ở; nhà ở riêng lẻ theo quy định của Luật Nhà ở; công trình xây dựng khác; cây lâu năm, rừng sản xuất là rừng trồng hoặc vật khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.

Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.

Khoản 1 Điều 104 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Tài sản gắn liền với đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất bao gồm nhà ở, công trình xây dựng khác, rừng sản xuất là rừng trồng và cây lâu năm có tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”.

Như vậy, theo quy định của pháp luật, tài sản gắn liền với đất bao gồm nhà ở, công trình xây dựng khác, rừng sản xuất là rừng trồng và cây lâu năm có tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

2.1.3. Phân biệt hợp đồng hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Như đã phân tích, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất là hợp đồng không có đền bù, có nghĩa là trong hợp đồng này, một bên thực hiện cho bên kia một lợi ích mà không nhận lại từ bên kia một lợi ích nào. Thông thường, các chủ thể trong hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất sử dụng hợp đồng làm phương tiện để giúp đỡ lẫn nhau, hay nói khác đi, việc các chủ thể giao kết hợp đồng dựa trên cơ sở tình cảm, tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn. Mặc dù vậy, việc giao kết hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vẫn phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Trong chương XXXI của Bộ luật Dân sự 2005 không có quy định cụ thể về nguyên tắc giao kết hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Do đó, việc giao kết hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất phải tuân thủ theo những nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự được quy định tại Điều 389 Bộ luật Dân sự 2005 đó là:

Nguyên tắc thứ nhất: Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Bộ luật Dân sự quy định cho các chủ thể được tự do giao kết hợp đồng nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể có thể thoả mãn nhu cầu vật chất cũng như tinh thần. Dựa trên nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ các điều kiện tư cách chủ thể đều có thể tham gia giao kết bất kỳ một giao dịch hay hợp đồng dân sự nào, kể cả tặng cho quyền sử dụng đất, nếu muốn.

Tuy nhiên, hợp đồng chỉ có hiệu lực pháp luật, được pháp luật công nhận và bảo vệ khi ý chí của các bên giao kết hợp đồng phù hợp với ý chí của nhà nước. Hay nói cách khác, sự tự do ý chí giao kết hợp đồng của các chủ thể phải nằm trong khuôn khổ, giới hạn nhất định - giới hạn lợi ích của các cá nhân khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công cộng. Nếu để các bên tự do vô hạn, thì hợp đồng dân sự sẽ trở thành phương tiện để nhiều người lợi dụng thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật và sẽ là nguy cơ đối với lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, phải đi xa hơn nữa trong vấn đề tăng cường sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ pháp luật tư, các việc dân sự... không được bỏ qua một khả năng tối thiểu nào để mở rộng sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ dân luật.

Nguyên tắc thứ hai: Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.

Nguyên tắc này được quy định nhằm bảo đảm trong việc giao kết hợp đồng dân sự nói chung, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất nói riêng không ai bị cưỡng ép hoặc bị những cản trở trái với ý chí của mình, đồng thời thể hiện bản chất của quan hệ pháp luật dân sự. Quy luật giá trị đòi hỏi các bên chủ thể khi tham gia các quan hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau; không ai được viện lý do khác biệt về hoàn cảnh kinh tế, thành phần xã hội, dân tộc, giới tính hay tôn giáo... để tạo ra sự bất bình đẳng trong quan hệ dân sự. Hơn nữa, ý chí tự nguyện của cac bên chủ thể tham gia hợp đồng chỉ được bảo đảm khi các bên bình đẳng với nhau trên mọi phương diện.

Chính vì vậy, pháp luật không thừa nhận những hợp đồng được giao kết thiếu sự bình đẳng và ý chí tự nguyện của một trong các bên chủ thể. Tuy nhiên, trên thực tế thì việc đánh giá một hợp đồng có được giao kết bảo đảm ý chí tự nguyện của các bên hay chưa, trong một số trường hợp lại là một công việc hoàn toàn không đơn giản và khá phức tạp bởi nhiều nguyên do chủ quan và khách quan khác nhau. Như chúng ta đã biết, ý chí tự nguyện là sự thống nhất giữa ý chí chủ quan bên trong và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài của chủ thể.

2.1.4 Vai trò của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

Về mặt xã hội, trong đời sống giao lưu dân sự, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau có những quy định pháp luật khác nhau về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, nhưng tựu trung lại thì hợp đồng tặng cho quyền sử dụng

đất được hình thành và xây dựng trên cơ sở quan hệ tình cảm giữa con người với nhau. Xuất phát từ mối quan hệ tình cảm, con người tặng cho nhau quyền sử dụng đất để khai thác, sử dụng nhằm đáp ứng các nhu cầu trong sản xuất, kinh doanh và trong sinh hoạt hàng ngày. Việc tặng cho quyền sử dụng đất đã nâng cao tình đoàn kết và phát huy tinh thần tương thân tương ái trong nhân dân: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa con người với con người thường được xuất phát từ các mối quan hệ tình cảm nhất định, có thể đó là mối quan hệ họ hàng, ruột thịt như ông bà, cha mẹ tặng cho con cháu quyền sử dụng đất để ở, để sản xuất kinh doanh..., cũng có thể đó là mối quan hệ quen biết như bạn bè hoặc những người trong cùng làng, xã tặng quyền sử dụng đất cho nhau.

Nhìn từ phía Nhà nước, các quy định pháp luật về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đã góp phần thúc đẩy sự phát triển sản xuất, kinh doanh. Việc ra đời của chế định về tặng cho quyền sử dụng đất là một trong những bước tiến mới có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật ở nước ta nói chung, cũng như pháp luật về đất đai nói riêng, đồng thời nó có ý nghĩa thiết thực trong thực tế cuộc sống.

Trước hết hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được Nhà nước quy định và thừa nhận nên mọi người đã coi hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất là một phương tiện pháp lý quan trọng, đảm bảo cho việc dịch chuyển quyền sử dụng đất từ người này sang người khác nhằm đáp ứng các nhu cầu trong sản xuất, kinh doanh. Chính yếu tố này đã thúc đẩy con người tặng cho nhau quyền sử dụng đất để khai thác, sử dụng đất một cách hợp lý và có hiệu quả.

2.1.5. Quy định pháp luật về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

+ Chủ thể của tặng cho quyền sử dụng đất là bên tặng cho quyền sử dụng đất gồm có hộ gia đình, cá nhân, tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài sau:

- Đổi với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê có các quyền và nghĩa vụ chung cho người sử dụng đất quy định tại Điều 166 và Điều 170 Luật đất đai hiện hành, còn có quyển tặng cho quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Luật đất đai hiện hành; tặng cho quyền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng theo quy định tại khoản 2 Điều 186 Luật đất đai hiện hành (điểm e khoản 1 Điều 179 Luật đất đai hiện hành).

Ngoài ra, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước cho thuê đất có các quyền và nghĩa vụ chung quy định tại Điều 166 và Điểu 170 Luật đất đai hiện hành, cũng có quyền tặng cho tài sản thuộc sở hữu của mình gắn hển vối quyền sử dụng đất, người được tặng cho tài sản đó được Nhà nước tiếp tục cho thuê đất theo mục đích đã được xác định (điểm a khoản 2 Điều 179 Luật đất đai hiện hành).

- Đối với tổ chức được tặng cho quyền sử dụng đất phải là tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất, có thu tiền sử dụng đất mà tiển sử dụng đất đã trả không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, có các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 166 và Điều 170 Luật đất đai hiện hành; có quyền tặng cho quyền sử dụng đất cho Nhà nước, tặng cho cộng đồng dân cư để xây dựng các công trình phục vụ lợi ích chung của cộng đồng, tặng cho nhà tình nghĩa gắn liền vối đất theo quy định của pháp luật (điểm c khoản 2 Điều 174 Luật đất đai hiện hành). Đồng thời, Luật đất đai hiện hành và quy định một số các tổ chức kinh tế sau cũng được tặng cho quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Luật đất đai hiện hành như nêu trên:

+ Tổ chức kinh tế được Nhà nước cho thuê đất trưởc ngày Luật đất đai hiện hành có hiệu lực thi hành, mà đã trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê hoặc đã trả trưốc tiền thuê đất cho nhiều năm, mà thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít nhất năm năm (khoản 3 Điều 174 Luật đất đai hiện hành).

+ Tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tiền đã trả cho việc chuyển nhượng đó không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước (khoản 2 Điều 176 Luật đất đai hiện hành).

+ Tổ chức kinh tế sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất không thu tiền sử dụng đất sang đất có thu tiền sử dụng đất; trường hợp tiền sử dụng đất đã trả cho việc chuyển mục đích sử dụng đất không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước mà tổ chức kinh tế chọn hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất (điểm a khoản 4 Điều 176 Luật đất đai hiện hành).

+ Tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phi nông ‘nghiệp hợp pháp từ tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc từ hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất; trường hợp tiền trả cho việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước thì không phải nộp tiền sử dụng đất, không phải chuyển sang thuê đất; trường hợp mà tiền trả cho việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, thì tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng quyển sử dụng đất phải chuyển sang thuê đất hoặc lựa chọn hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, thì phải nộp tiền sử dụng đất.

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

Quyền sử dụng đất là một loại tài sản đặc biệt, có vai trò quan trọng về mặt chính trị, kinh tế và xã hội. Xuất phát từ tính chất quan trọng này, pháp luật dân sự và đất đai có rất nhiều các quy định về điều kiện để chủ thể có quyền sử dụng đất được phép thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất, trong đó có hình thức tặng cho. Tuy nhiên, trên thực tế thực hiện các quy định về điều kiện tặng cho đối với chủ thể và quyền sử dụng đất là đối tượng tặng cho, một số quy định pháp luật còn chưa phù hợp, cụ thể:

Thứ nhất, quy định về quyền sử dụng đất phải có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới được phép giao dịch tặng là chưa phù hợp trong điều kiện thực tế hiện nay do việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ thể sử dụng đất vẫn chưa được hoàn thành nên còn tồn tại một số lượng lớn người sử dụng đất chưa được cấp giấy chứng nhận. Hiện nay, các quy định pháp luật đất đai cho phép các chủ thể có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013 thì sẽ được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Có thể thấy, với quy định này, các đối tượng này đã được pháp luật thừa nhận có quyền sử dụng đất hợp lệ, chỉ chưa được cấp Giấy chứng nhận. Tuy nhiên, các chủ thể này lại chưa được thực hiện các quyền của chủ sử dụng đất. Quy định này trên thực tế tỏ ra khá “quan liêu” và khiến các giao dịch về quyền sử dụng đất bị trở nên “hành chính” hóa (bắt buộc phải có các giấy tờ pháp lý do cơ quan nhà nước cấp mới được thực hiện giao dịch). Từ trước khi Luật đất đai năm 2013 có hiệu lực, trên thực tế, trong nhiều vụ tranh chấp, các thẩm phán khi xét xử đều có sự linh động khi công nhận tính hợp pháp của các hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất trong trường hợp này, theo đó: “trong trường hợp tặng cho quyền sử dụng đất mà người tặng cho không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng có một trong các giấy tờ quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 50 của Luật đất đai năm 2003, mà nội dung hợp đồng và hình thức hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật và hai bên đã giao nhận tài sản tặng cho, thì Tòa án công nhận hợp đồng đó”[21]. Và đến nay, khi Luật đất đai năm 2013 đã được ban hành và có hiệu lực nhưng thực tế này vẫn chưa được khắc phục triệt để.

Thứ hai, việc tặng cho quyền sử dụng đất của hộ gia đình thường khó khả thi trên thực tế. Theo quy định của pháp luật, đối với quyền sử dụng đất của hộ gia đình thì các giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền đất chỉ có thể được thực hiện khi các thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất đồng ý bằng văn bản và văn bản đồng ý này phải được công chứng hoặc chứng thực theo quy định. Như vậy, có thể thấy, để thực hiện các quyền của chủ sở hữu đối với quyền sử dụng đất của hộ gia đình là cả một quá trình rắc rối và phức tạp và dễ nảy sinh tranh chấp giữa các thành viên trong hộ gia đình. Trước hết, để thực hiện được giao dịch, các cơ quan quản lý nhà nước phải xác định được đâu là những thành viên trong hộ gia đình có quyền sử dụng đất. Khoản 29 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 đã đưa ra khái niệm “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất.”. Có thể thấy, chính bản thân khái niệm này cũng nảy sinh những mâu thuẫn trong xác định các thành phần trong hộ gia đình có quyền sử dụng đất chung.

3. Kết luận

Việc tặng cho quyền sử dụng đất diễn ra khá đa dạng và phức tạp, trong khi đó việc giải quyết của Toà án còn nhiều mâu thuẫn, bất cập; trong cùng một vụ án, việc công nhận hợp đồng hay không công nhận hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa các cấp Tòa án giải quyết có sự khác nhau; trong những vụ việc tương tự, việc giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vô hiệu giữa các cấp Tòa án chưa có sự thông nhất. Trong giai đoạn pháp luật chưa có quy định về tặng cho quyền sử dụng đất, từ giai đoạn pháp luật cấm chuyển quyền sử dụng đất cũng như cấm tặng cho quyền sử dụng đất, đến giai đoạn pháp luật đã cho phép người sử dụng đất có quyển chuyển quyền sử dụng đất và người chủ sở hữu tài sản có quyền tặng cho tài sản là bất động sản; nhưng việc tặng cho quyền sử dụng đất chúa được pháp luật chính thức công nhận, thì việc tặng cho quyền sử dụng đất vẫn diễn ra, người được tặng cho đã nhận đất để sử dụng Ổn định, về nguyên tắc pháp luật thời kỳ đó chưa cho phép tặng cho quyền sử dụng đất, nên Tòa án xác định hợp đồng tặng cho vô hiệu và quyết định hủy bỏ việc tặng cho, nhưng một số Tòa án vẫn công nhận việc tặng cho về mặt thực tế.

 

Tài liệu tham khảo

[1] Quốc hội (2013), Hiến pháp.

[2] Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự.

[3] Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[4] Quốc hội (2013), Luật Đất đai.

[5] Từ điển pháp luật Anh-Việt (1991), NXB Khoa học Xã hội Hà Nội.

[6] Trường ĐH Kinh tế - Luật (2018), Giáo trình Luật Dân sự, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

[7] Trường ĐH Luật TP. HCM (2018), Giáo trình những quy định chung về Luật Dân sự, NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội.

[8] Trường ĐH Quốc gia Hà Nội (2013), Giáo trình Luật Hợp đồng phần chung, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

[9] Đỗ Văn Chỉnh (2008), Tặng cho quyền sử dụng đất thực tiễn và tồn tại, Tạp chí Tòa án nhân dân (3), trang 30

[10] Nguyễn Minh Tuấn (2015), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự 2015, NXB Tư pháp.

[11] Ngô Hoàng Oanh (2015), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự 2015, NXB Lao động.

[12] Đỗ Văn Đại (2018), Luật Hợp đồng Việt Nam (tập 2), NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội.

[13] Trường ĐH Công Nghệ TP.HCM, Tài liệu học tập Pháp luật về hợp đồng, Khoa Luật.

[14] Lưu Minh Sang, Nguyễn Đình Thức, Võ Thị Thu Hà, Bộ luật Dân sự - Khi cũ và mới đứng cạnh nhau. Nguồn: https://lawnet.thukyluat.vn/posts/t4303-so-sanh-blds-2005-va-blds-2015.

Sửa lần cuối vào

Bình luận

Để lại một bình luận

Tìm kiếm

Điện thoại liên hệ: 024 62946516