Nguyễn Thanh Tùng
Khoa Luật Kinh tế, Trường Đại học Luật, Đại học Huế
Nguyễn Thị Lê Huyền
Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật, Đại học Huế
Tóm tắt
Các hành vi vi phạm luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả phổ biến như: photocopy tài liệu, giáo trình, sách tham khảo, luận văn, luận án… của người khác để phổ biến, sử dụng với nhiều mục đích khác nhau khi chưa nhận được sự cho phép của tác giả. Tuy nhiên, cho đến nay những hành vi xâm phạm quyền tác giả nêu trên vẫn chưa bị xử lý với mức độ tương xứng. Trong phạm vi của bài viết này, nhóm tác giả sẽ phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về thực thi quyền tác giả trong các trường đại học ở Việt Nam; từ đó kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quyền tác giả trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay.
Từ khoá: Quyền tác giả, thực thi quyền tác giả; Xâm phạm quyền tác giả trong trường đại học.
1. Khái lược về quyền tác giả, thực thi quyền tác giả và thực thi quyền tác giả trong các trường đại học
Hiện nay, tùy theo hệ thống pháp luật khác nhau, cách tiếp cận khác nhau mà quyền tác giả đang được hiểu không hoàn toàn giống nhau. Các quốc gia theo hệ thống luật chung Anh – Mỹ (Common Law), với mong muốn đặt mục đích bảo hộ quyền sao chép (một loại quyền quan trọng thuộc nhóm quyền tài sản của quyền tác giả), đã sử dụng thuật ngữ “copyright” được hiểu là quyền sao chép, quyền nhân bản hay “bản quyền”, bởi bản thân từ “copyright” được ghép thành từ hai từ “copy” nghĩa là sao chép, nhân bản và “right” có nghĩa là quyền. Trong khi đó các quốc gia theo hệ thống dân luật (Civil Law) như Pháp và một số quốc gia khác lại sử dụng thuật ngữ “droit d’auteur” được hiểu là quyền của tác giả, trong đó “droit” là quyền và “d’auteur” là tác giả.
Ở Việt Nam, quyền tác giả cũng có nhiều cách hiểu. Theo nghĩa khách quan, quyền tác giả là tổng hợp tất cả các quy phạm pháp luật về quyền tác giả nhằm xác nhận và bảo vệ quyền của tác giả, của chủ sở hữu quyền tác giả, xác định nghĩa vụ của các chủ thể trong việc sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Theo nghĩa chủ quan, quyền tác giả là tổng hợp các quyền, nghĩa vụ của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và các chủ thể có liên quan khác. Ngoài hai cách hiểu trên, quyền tác giả còn được hiểu là quyền cho phép tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả được độc quyền khai thác tác phẩm, chống lại việc sao chép bất hợp pháp. Còn theo khoản 2 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009, 2019, 2022 (sau đây gọi là Luật Sở hữu trí tuệ), quyền tác giả là “quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”.
Từ những luận cứ nêu trên, chúng ta có thể hiểu: “Quyền tác giả là tổng hợp tất cả các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu được pháp luật quy định hoặc thừa nhận”.
Để bảo đảm quyền tác giả được tôn trọng, không bị xâm phạm ở trên thực tế thì vấn đề thực thi quyền tác giả phải được đặt lên hàng đầu. Việc thực thi quyền tác giả phải được thực hiện đồng bộ bởi các chủ thể có liên quan. Đồng thời, mỗi một chủ thể phải tích cực thực hiện quyền hạn, trách nhiệm của mình trong việc thực thi quyền tác giả. Trên thực tế, nếu hiểu theo nghĩa rộng, thực thi quyền tác giả là chuỗi các hoạt động, trong đó bao gồm: hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoạt động tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật vận dụng pháp luật của các chủ thể có liên quan để bảo đảm cho quyền tác giả được thực thi. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, thì thực thi quyền tác giả là các cách thức, biện pháp để ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền tác giả. Tóm lại có thể hiểu rằng, thực thi quyền tác giả là việc các chủ thể có liên quan thực hiện những hành vi nhất định mà pháp luật không cấm để đảm bảo quyền tác giả của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
Trong các trường đại học, việc thực thi quyền tác giả chủ yếu xuất phát từ hai nhu cầu chủ yếu: một là, bảo đảm quyền tiếp cận và sử dụng các thông tin tri thức chính đáng từ tác phẩm (chủ yếu là các công trình nghiên cứu khoa học như đề tài nghiên cứu khoa học đã được nghiệm thu, luận án, luận văn, khóa luận, giáo trình, sách chuyên khảo,…) để phục vụ cho quá trình dạy, học, nghiên cứu của giảng viên, sinh viên, học viên; hai là, bảo đảm việc các chủ thể sử dụng tác phẩm để sử dụng những thông tin tri thức từ tác phẩm nhưng không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Mặt khác, chủ thể chủ yếu sáng tạo ra tác phẩm hoặc khai thác, sử dụng tác phẩm trong các trường đại học chủ yếu bao gồm giảng viên, học viên, sinh viên và thậm chí là chính bản thân trường đại học đó. Trên cơ sở những đặc thù đó, chúng ta có thể đưa ra khái niệm thực thi quyền tác giả trong các trường đại học như sau: Thực thi quyền tác giả trong các trường đại học là việc các chủ thể trong các trường đại học (chủ yếu là giảng viên, học viên, sinh viên và trường đại học đó) thực hiện những hành vi nhất định phù hợp với quy định của pháp luật để việc sử dụng tác phẩm được diễn ra bình thường, không gây phương hại đến quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm.
2. Một số bất cập trong các quy định của pháp luật và thực tiễn thực thi quyền tác giả trong các trường đại học ở Việt Nam
Trong những năm qua, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để tăng cường đảm bảo thực thi quyền tác giả nói chung và trong các trường đại học, cao đẳng nói riêng. Cụ thể như: Bộ luật Dân sự 20155; Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung 2009, 2019, 2022 (sau đây gọi chung là Luật Sở hữu trí tuệ); Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020)… Tất cả những quy định đó đều thể hiện sự quyết tâm của các cấp, các ngành trong việc thực thi quyền tác giả một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, một số quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ hiện nay đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế gây nên một số khó khăn nhất định trong việc thực thi pháp luật về quyền tác giả trong các trường đại học trên cả nước hiện nay, cụ thể:
Một là, điểm a khoản 1 điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ cho phép cá nhân thực hiện việc tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân mà không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao. Tuy nhiên, hiện nay, có hai luồng ý kiến khác nhau về vấn đề này. Cụ thể: luồng ý kiến thứ nhất cho rằng quy định nêu trên đang là nguyên nhân tạo ra một vấn nạn là sinh viên, học viên trong các trường đại học, cao đẳng photo giáo trình, bài giảng, sách chuyên khảo, luận văn, luận án để sử dụng trong học tập một cách bừa bãi mà thiếu sự quản lý của nhà trường cùng các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Trong khi đó, học tập và nghiên cứu khoa học mặc dù có quan hệ bổ trợ cho nhau nhưng lại là hai hoạt động khác nhau. Học tập là quá trình tích lũy kiến thức, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của các thế hệ đi trước một cách có chọn lọc để kế thừa và sáng tạo ra cái mới tốt hơn. Nghiên cứu khoa học theo quy định tại khoản 4 điều 3 Luật Khoa học công nghệ 2013 là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn. Nhưng hiện nay nhiều sinh viên, học viên đều đánh đồng hai vấn đề trên thành một, nên cứ “vô tư” sao chép bằng hình thức photo và sử dụng khi chưa có được sự đồng ý của chủ thể quyền. Điều này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền tài sản của chủ sở hữu quyền tác giả mà cụ thể là quyền sao chép tác phẩm. Bởi quyền sao chép theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 20 của Luật Sở hữu trí tuệ là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao của tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường xuyên hoặc tạm thời tác phẩm dưới hình thức điện tử. Luồng ý kiến thứ hai cho rằng, rất khó phân định sự khác nhau giữa học tập và nghiên cứu khoa học, bởi trong quá trình học, một vấn đề nào đó lại trở thành đối tượng để nghiên cứu trong giờ học và đôi khi trong quá trình học tập cũng phát hiện ra những vấn đề mới. Bên cạnh đó, điều kiện kinh tế của người dân hiện nay còn gặp nhiều khó khăn nhưng nhu cầu tiếp cận tri thức mới lại đang tăng cao, do đó nếu không cho phép sao chép một bản để phục vụ quá trình học tập thì không phù hợp với nhu cầu thực tế. Mặt khác, khoản 2 điều 9 Công ước Bern cũng cho phép: “Luật pháp quốc gia thành viên có quyền cho phép sao in tác phẩm trong một vài trường hợp đặc biệt, miễn là sự sao in đó không phương hại đến việc khai thác bình thường tác phẩm hoặc không gây thiệt thòi bất chính cho những quyền lợi hợp pháp của tác giả”.
Hai là, theo khoản 2 điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ thì việc cho phép các tổ chức, cá nhân sao chép một bản để phục vụ cho nghiên cứu khoa học và giảng dạy mà không phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao chỉ được thực hiện khi không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. Tuy nhiên, trên thực tế, cách hiểu như thế nào về việc khai thác bình thường tác phẩm vẫn còn chưa rõ ràng. Việc sinh viên, học viên photo giáo trình, sách chuyên khảo để học tập, nghiên cứu có được xem là ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm hay không hiện vẫn đang còn nhiều tranh cãi.
Ba là, khoản 4 điều 19 Luật sở hữu trí tuệ quy định tác giả có quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Quy định này dễ gây hiểu nhầm là tác giả chỉ có quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào khi hành vi đó gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả, còn nếu không gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả thì không được phép. Chính vì vậy mà hiện nay, hiện tượng “nhào nặn” biến nội dung tác phẩm của người khác như giáo trình, bài giảng, luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp diễn ra khá phổ biến trong các trường đại học.
Bên cạnh đó, thực tiễn thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ tại các trường Đại học cho thấy, hành vi xâm phạm quyền tác giả đã thực sự trở thành một vấn đề nhức nhối, đã và đang gây nhiều bức xúc trong dư luận. Các hành vi vi phạm quyền tác giả trong các trường đại học phổ biến hiện nay như: photocopy tài liệu, giáo trình, sách tham khảo, luận văn, luận án… của người khác để phổ biến, sử dụng với nhiều mục đích khác nhau trong đó có cả mục đích thương mại khi chưa nhận được sự cho phép của tác giả; sử dụng kiến thức trong các giáo trình, tài liệu, trang thông tin mà không trích dẫn nguồn; hoặc thậm chí có hiện tượng tự ý lấy sách của người khác rồi sao y hoặc bổ sung một số nội dung và sau đó xuất bản, bán tràn lan với số lượng lớn để thu lợi; sử dụng nội dung, kiến thức trong các tài liệu của các tác giả khác mà không trích dẫn nguồn theo quy định; một số công trình nghiên cứu khoa học, luận văn, luận án sao chép đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn, luận án của người khác; một số công trình nghiên cứu khoa học, luận văn, luận án có dẫn nguồn, chú thích khi sử dụng tác phẩm của người khác, nhưng trong nội dung còn nhiều kiến thức của các tài liệu tham khảo đã được họ “nhào nặn” chuyển thành của chính họ;… Thông qua các vụ việc đó, chúng ta có thể thấy chủ thể thực hiện những hành vi này có khi là sinh viên, người ngoài nhưng cũng có khi lại là chính các giảng viên (trong và ngoài trường). Tuy nhiên, cho đến nay, đa số những hành vi xâm phạm quyền tác giả nêu trên vẫn chưa được xử lý dứt điểm hoặc nếu có thì đa số cũng chỉ dừng lại ở mức độ nhắc nhở.
Thực trạng trên cho thấy việc thực thi pháp luật về quyền tác giả các trường đại học hiện nay chưa được thực hiện tốt. Nguyên nhân của vấn đề này xuất phát chủ yếu từ các chủ thể thực thi quyền tác giả lẫn quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Cụ thể:
Thứ nhất, về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả: Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả trong Đại học Huế và các trường thành viên hiện nay chủ yếu là giảng viên, sinh viên, học viên của nhà trường. Bên cạnh đó, các trường đại học cũng có thể trở thành chủ sở hữu quyền tác giả trong trường hợp trường giao nhiệm vụ chuyên môn cho tác giả sáng tạo ra tác phẩm hoặc giao kết hợp đồng với tác giả để trên cơ sở cam kết trong hợp đồng tác giả tạo ra tác phẩm. Tuy nhiên trên thực tế, các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả nêu trên lại chưa thực hiện tốt việc thực thi quyền tác giả. Cụ thể: cho đến nay, đại đa số các tác phẩm khoa học taị các trường đại học ít được đăng ký bảo hộ quyền tác giả mặc dù việc đăng ký không phải là điều kiện làm phát sinh quyền tác giả mà việc đăng ký bảo hộ chỉ có vai trò quan trọng trong việc chứng minh quyền tác giả của chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm khi có tranh chấp về quyền tác giả tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ hai, về người sử dụng tác phẩm (chủ yếu là các giảng viên, sinh viên, học viên và người ngoài trường): Không ít người khai thác, sử dụng các tác phẩm chưa có ý thức tôn trọng quyền tác giả, nhiều trường hợp cố tình xâm phạm quyền tác giả mà tệ hơn người thực hiện những hành vi đó lại chính là các giảng viên (như vụ một giảng viên dùng đề tài luận văn lý luận chính trị của học viên cao học do mình hướng dẫn để biến thành đề tài nghiên cứu cấp trường của chính mình; vụ một giảng viên cắt xén, sao chép luận án tiến sĩ luật học của người khác rồi biến thành đề tài nghiên cứu cấp trường của chính mình;…). Bên cạnh đó, nhiều chủ thể khai thác là sinh viên, học viên sử dụng tác phẩm chưa có những hiểu biết nhất định quy định của pháp luật về việc khai thác, sử dụng tác phẩm một cách đúng luật nên nhiều khi “vô tư” sao chép tác phẩm của người khác mà không xin phép, không trích dẫn nguồn, không trả thù lao; xuyên tạc, sửa chữa, cắt xén nội dung tác phẩm một cách tùy tiện. Mặt khác, các chủ thể khác không phải là thành viên trong trường như chủ các tiệm photocopy đã tự ý nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc các trang mạng tự ý truyền tải tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số như rao bán luận văn, luận án, giáo trình, bài giảng trên các website điện tử mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả gây phương hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả...
Thứ ba, về các cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Trong thời gian qua, trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã nỗ lực cố gắng trong việc đảm bảo thực thi quyền tác giả nói chung và thực thi quyền tác giả trong các trường đại học. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà công tác này chưa mang lại nhiều kết quả như mong đợi. Cụ thể: không ít cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thiếu đội ngũ chuyên gia chuyên trách về sở hữu trí tuệ nên việc tham mưu, tư vấn cho lãnh đạo giải quyết các vụ việc liên quan đến quyền tác giả còn chậm, thời gian giải quyết kéo dài; việc giải quyết các vụ việc tại Tòa án có thể sẽ gặp nhiều khó khăn do chưa có đội ngũ thẩm phán có trình độ chuyên môn sâu về sở hữu trí tuệ, mặc dù việc giải quyết những tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ có những đặc thù riêng nhưng hiện tại ở nước ta hiện nay vẫn chưa có Tòa chuyên trách về sở hữu trí tuệ; một số cơ quan nhà nước chưa làm hết chức năng, nhiệm vụ của mình, để xảy ra tình trạng phát hiện và xử lý chưa kịp thời các hành vi xâm phạm quyền tác giả mà việc phát hiện các hành vi xâm phạm quyền tác giả trong các trường đại học trong thời gian qua chủ yếu là do các chủ thể quyền bị xâm phạm phát hiện.
3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quyền tác giả trong các trường đại học ở Việt Nam
Về giải pháp hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, về điểm a khoản 1 và khoản 2 điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ: Pháp luật sở hữu trí tuệ được xây dựng dựa trên nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu quyền tác giả với lợi ích của xã hội, tạo điều kiện cho các chủ thể trong xã hội được tiếp cận, khai thác và sử dụng những sản phẩm tri thức mới, từ đó giúp nâng cao việc áp dụng những sản phẩm tri thức đó vào thực tế. Mặt khác, điều kiện kinh tế của người dân nước ta hiện nay còn gặp nhiều khó khăn nhưng nhu cầu tiếp cận tri thức mới lại đang tăng cao, do đó nếu không cho phép sao chép một bản để phục vụ quá trình học tập thì không phù hợp với nhu cầu thực tế. Do đó, nên sửa điểm a khoản 1 điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ thành “tự sao chép một phần nhỏ của tác phẩm nhằm mục đích học tập, nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân”. Điều này cũng tương thích với quy định trong Luật bản quyền Hoa Kỳ, theo đó cho phép “giáo viên hoặc học sinh sao chép một phần nhỏ của tác phẩm để minh họa cho bài học”.
Thứ hai, về khoản 2 điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ: Có thể nói tình trạng sao chép giáo trình, sách chuyên khảo,… trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay không thể nói là không xâm phạm đến việc khai thác bình thường tác phẩm được. Bởi lẽ, giáo trình, sách chuyên khảo,… là sản phẩm lao động sáng tạo bằng trí óc của tác giả được viết nên, in thành sách không chỉ để tác giả lưu giữ thành quả nghiên cứu của mình mà còn để bán cho những người có nhu cầu khai thác, sử dụng để thu lợi, từ đó góp phần tái tạo lại sức lao động cho tác giả. Mặt khác, chủ thể chủ yếu có nhu cầu khai thác, sử dụng là sinh viên, học viên, nhưng trong trường hợp này học viên, sinh viên lại chỉ dùng sách photo chỉ đơn giản là vì giá sách photo rẻ hơn giá sách xuất bản. Như vậy, sách xuất bản không bán được hoặc số lượng sách bán được lại rất hạn chế, chỉ có sinh viên, học viên và đặc biệt là chủ các cửa tiệm photo là người được hưởng lợi nhiều nhất, do đó sẽ dẫn đến nguy cơ “giết chết” tác giả. Do đó, để hài hòa quyền lợi của tác giả và người khai thác, sử dụng, cần: bổ sung làm rõ nội hàm của “việc khai thác bình thường tác phẩm” là thế nào để tránh những cách hiểu khác nhau; đồng thời, bên cạnh đó cần đưa ra tỉ lệ giới hạn mà người khai thác, sử dụng được quyền sao chép khi sao chép tác phẩm. Luật bản quyền Hoa Kỳ chỉ cho phép “giáo viên hoặc học sinh sao chép một phần nhỏ của tác phẩm để minh họa cho bài học” tức là không phải toàn bộ nội dung tác phẩm như chúng ta hiện nay. Bên cạnh đó, pháp luật về bản quyền của một số quốc gia khác trên thế giới cũng cho phép những đối tượng này có quyền sao chép nhưng bị giới hạn bởi một tỉ lệ khá cụ thể như: Singapore, Úc là 10% tác phẩm[3]; ở Anh là 10% tác phẩm nhưng không được vượt quá một chương của cuốn sách[4]. Bên cạnh đó, pháp luật cần phải có quy định kiểm soát chặt chẽ hoạt động photocopy của các của tiệm photo và phải có chế tài xử phạt thích đáng đối với hành vi photo vượt quá tỉ lệ cho phép trên một tác phẩm.
Thứ ba, về khoản 4 điều 19 Luật sở hữu trí tuệ: cần sửa đổi quy định này thành tác giả có quyền “bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào” để tránh tình trạng trong một số trường hợp tác giả đã là người bị hại lại phải vất vả tìm chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm của người khác gây phương hại đến danh dự và uy tín của chính tác giả, bởi việc thu thập và tìm các chứng cứ và chứng minh một cách thuyết phục các chứng cứ đó trên thực tế hiện nay không phải là điều đơn giản.
Về giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quyền tác giả trong các trường đại học ở Việt Nam:
- Đối với chủ thể là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả: Cần nâng cao hiểu biết pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng để tăng cường ý thức tự bảo vệ tài sản trí tuệ của mình; chủ động đăng ký bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm thuộc sở hữu của mình để phòng ngừa các tranh chấp về quyền tác giả có thể xảy ra. Bên cạnh đó, với tư cách vừa là cơ sở đào tạo vừa là chủ sở hữu quyền tác giả đối với một số tác phẩm trong trường, các trường đại học nên gấp rút đồng bộ thành lập bộ phận chuyên trách về quản lý hoạt động sở hữu trí tuệ trong nhà trường trực thuộc phòng Khoa học công nghệ nhằm đảm bảo cho công tác thực thi quyền tác giả trong nhà trường được thực hiện có hiệu quả, giúp phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi xâm phạm quyền tác giả. Mặt khác, trên các website của các trường thành viên nên có mục hỏi đáp kiến thức về sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng (do bộ phận chuyên trách về quản lý hoạt động sở hữu trí tuệ trong nhà trường trực thuộc phòng Khoa học công nghệ đảm trách) để tuyên truyền, phổ biến và giải đáp kịp thời những thắc mắc kiến thức pháp luật về sở hữu trí tuệ cho giảng viên, sinh viên, học viên trong và ngoài trường
- Đối với người sử dụng: cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về sở hữu trí tuệ trong đó có quyền tác giả cho người cán bộ, giảng viên, sinh viên để nâng cao ý thức bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình, đồng thời tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của người khác như: có thể đưa môn luật sở hữu trí tuệ trở thành môn học bắt buộc của trường; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về sở hữu trí tuệ trong đó có quyền tác giả trong trường. Trong trường hợp nếu phát hiện hành vi xâm phạm quyền tác giả thì cần phải xử lý triệt để, nghiêm minh, đúng pháp luật và thông báo rộng rãi nhằm răn đe chung.
- Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Tăng cường bồi dưỡng kiến thức pháp luật về sở hữu trí tuệ cho đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác liên quan đến sở hữu trí tuệ, tiến đến xây dựng bộ phận chuyên trách chuyên xử lý những hành vi vi phạm về quyền sở hữu trí tuệ trong đó có quyền tác giả. Bên cạnh đó, tùy vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành vi vi phạm quyền tác giả. Bộ Thông tin và truyền thông phối hợp với Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch kiểm tra, rà soát, kiên quyết đóng các trang điện tử rao bán giáo trình, luận án, luận văn và các công trình nghiên cứu khoa học khác một cách trái phép, đồng thời có chế tài xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
4. Kết luận
Trong bối cảnh nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường, đặc biệt chú trọng hướng đến việc xây dựng nền kinh tế tri thức, điều đó đòi hỏi vấn đề thực thi quyền tác giả cần phải được thực hiện đồng bộ, quyết liệt. Các trường đại học với vai trò vừa là cơ sở đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao vừa là địa chỉ đỏ sáng tạo ra nhiều sản phẩm khoa học, do đó theo chúng tôi, việc xây dựng các giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền tác giả trong các trường đại học là rất cần thiết, trong đó cần chú ý việc xây dựng giải pháp phải phù hợp với quy định của các các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng như pháp luật với một số nước phát triển trên thế giới trong mối quan hệ tương thích với điều kiện thực tế tại Việt Nam. Đồng thời, phải đảm bảo tính hài hòa về lợi ích giữa chủ thể quyền và người có nhu cầu khai thác, sử dụng tác phẩm, từ đó vừa bảo vệ được quyền tác giả của chủ thể quyền, vừa giúp người có nhu cầu chính đáng trong việc được tiếp cận các nguồn tri thức, giúp ích cho xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019, 2022
2. Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020
3. Quyết định số 78/2008/BGD&ĐT về quản lý hoạt động sở hữu trí tuệ trong cơ sở giáo dục đại học
4. Bùi Loan Thuỳ, Bùi Thu Hằng, Thực hiện quyền sở hữu trí tuệ và quyền tác giả trong hoạt động thông tin - thư viện; Tạp chí Thư viện Việt Nam số 1(27) – 2011, tr.16-23.
[1] Phó khoa Luật Kinh tế, Trường Đại học Luật, Đại học Huế
[2] Trưởng bộ môn Luật Dân sự, Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật, Đại học Huế
[3] Bùi Loan Thuỳ, Bùi Thu Hằng, Thực hiện quyền sở hữu trí tuệ và quyền tác giả trong hoạt động thông tin - thư viện; Tạp chí Thư viện Việt Nam số 1(27) – 2011, tr.16-23.