HÀ THỊ KIM LINH [1]
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên
Nhận bài ngày 09/5/2025. Sửa chữa xong 17/5/2025. Duyệt đăng 27/5/2205.
Tóm tắt:
Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, phát triển năng lực số (NLS) cho sinh viên (SV) sư phạm trở nên cấp thiết. Nghiên cứu tại Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên (ĐHSP - ĐHTN) cho thấy, SV khá tốt ở năng lực sử dụng thiết bị và giao tiếp số nhưng còn hạn chế trong khả năng sáng tạo nội dung; những khó khăn gặp phải là SV thiếu cơ hội thực hành công nghệ trong môi trường sư phạm thực tế; thiếu tài liệu hướng dẫn cụ thể và hệ thống đánh giá năng lực số. Để khắc phục, cần tích hợp NLS vào chương trình đào tạo, xây dựng học phần kỹ năng số chuyên sâu, tăng cường trải nghiệm thực tế qua dự án công nghệ giáo dục và hợp tác với trường phổ thông.
Từ khoá: Năng lực số, Phát triển năng lực số, Sinh viên sư phạm, Giáo dục đại học;
- 1.Đặt vấn đề
Thế giới đang bước vào kỷ nguyên của chuyển đổi số và có tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội. Các tài sản hữu hình đang dần chuyển thành các tài sản số; yêu cầu về vị trí nghề nghiệp liên tục biến đổi và việc ra quyết định phụ thuộc vào quá trình quản trị tri thức đã ảnh hưởng rất lớn đến quá trình vận hành các tổ chức, doanh nghiệp. Bối cảnh này đã và đang tác động toàn diện đến lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Sản phẩm đào tạo phải đáp ứng được yêu cầu sống và làm việc trong xã hội số. Tại Việt Nam, chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã đề ra các mục tiêu quan trọng về phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số [1]. Trong đó, giáo dục và đào tạo đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao nhận thức, hình thành năng lực số và phát triển nguồn nhân lực số. Thông tư 02/2025 TT-BGDĐT đã quy định khung năng lực số cho người học, đây là cơ sở xây dựng chuẩn chương trình đào tạo, phát triển chương trình giảng dạy, là căn cứ để đánh giá kết quả đạt được năng lực số trong các chương trình giáo dục [2].
Sinh viên (SV) sư phạm cần được đào tạo để sử dụng thành thạo công nghệ dạy học, quản lý và tương tác với học sinh, phụ huynh trong môi trường số. Chính vì vậy, đánh giá năng lực số (NLS) của SV Trường Đại học sư phạm, xác định những NLS còn hạn chế có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng các hoạt động đào tạo của nhà trường nhằm phát triển NLS cho SV. Bài viết đánh giá NLS của SV sư phạm, các hình thức và khó khăn trong phát triển NLS cho SV ở Trường Trường Đại học sư phạm, Đại học Thái Nguyên.
- 2.Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng NLS của SV sư phạm, nghiên cứu đã sử dụng phương pháp nghiên cứu lý luận về NLS và phát triển NLS cho SV đại học, khảo sát và đánh giá thực trạng NLS của SV sư phạm qua bằng phương pháp điều tra bảng hỏi được thiết kế trên google form với thang đo Likert 5 mức (khảo sát trên 235 SV năm thứ 4 kết hợp phỏng vấn giảng viên (GV) Trường Trường Đại học sư phạm Thái Nguyên) trong năm học 2024- 2025. Số liệu khảo sát được xử lý về điểm trung bình (ĐTB) bằng phần mềm Excel. Tính điểm trung bình các mức độ khảo sát, các mức của thang đo được đặt tương ứng với các giá trị 1, 2, 3, 4,5.
3. Kết quả và bàn luận
3.1. Năng lực số của sinh viên sư phạm
Năng lực số (Digital Competency/Digital Literacy) đã được nhiều tổ chức quốc tế định nghĩa và phát triển thành các khung năng lực chuẩn. Theo khung NLS của công dân châu Âu DigComp 2.2 (European Commission, 2022), NLS bao gồm năm nhóm chính: 1) Nhận biết và xử lý thông tin, 2) Giao tiếp và hợp tác qua môi trường số, 3) Sáng tạo nội dung số, 4) An toàn số, và 5) Giải quyết vấn đề [3].
NLS là khả năng truy cập, quản lý, hiểu, kết hợp, giao tiếp, đánh giá và sáng tạo thông tin một cách an toàn và phù hợp thông qua công nghệ số để phục vụ cho các công việc từ đơn giản đến phức tạp cũng như khởi nghiệp. NLS là tổng hợp của NL sử dụng máy tính, NL công nghệ thông tin, NL thông tin và NL truyền thông” (UNESCO, 2018) [4]. Đây cũng là khái niệm được sử dụng làm nền tảng định hướng cho phát triển khung NLS. Nhóm tác giả Lê Văn Hảo (2021), Nguyễn Thị Hạnh (2022) cho rằng NLS là khả năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong các hoạt động học tập, làm việc và giao tiếp một cách hiệu quả, an toàn và phù hợp. Bên cạnh đó một số nghiên cứu có xu hướng giản lược NLS dưới hình thức “kỹ năng công nghệ thông tin”, “khả năng sử dụng máy tính và Internet” những tiếp cận này chưa thực sự bao quát được các yếu tố về tư duy phản biện, đạo đức số hay khả năng sáng tạo nội dung số cần thiết trong bối cảnh hiện nay [5], [6].
Tiếp cận nghiên cứu về NLS của SV sư phạm với tư cách là những giáo viên tương lai cần bao gồm khả năng tổ chức lớp học tích hợp công nghệ, thiết kế bài giảng số, đánh giá học sinh qua công cụ kỹ thuật số, và phát triển chuyên môn thường xuyên trên môi trường mạng [7]; Nghiên cứu của Trần Thị Tuyết Oanh (2020), Vũ Văn Hùng (2022) cũng chỉ ra rằng NLS của SV sư phạm cần được hiểu không chỉ là khả năng sử dụng công nghệ mà còn bao gồm khả năng thiết kế bài giảng có công nghệ hỗ trợ, giảng dạy tích cực với phương tiện số, sử dụng hệ thống quản lý học tập (LMS), và phát triển tài nguyên học liệu mở [8], [9].
Dựa trên một số nghiên cứu về NLS, nghiên cứu tiếp cận NLS của SV sư phạm là tổ hợp các yếu tố kiến thức, kỹ năng, thái độ và hành vi liên quan đến việc sử dụng hiệu quả, sáng tạo và có đạo đức các công nghệ số vào quá trình học tập và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm (thiết kế bài giảng, tổ chức dạy học, đánh giá học sinh và phát triển nghề nghiệp) nhằm phục vụ hoạt động nghề nghiệp và tương tác trong môi trường giáo dục số hiện đại.
Kế thừa các nghiên cứu đi trước [10],[ 11],[ 12],[13] bài viết này tiếp cận NLS của SV sư phạm gồm những năng lực thành phần: Năng lực vận hành thiết bị và phần mềm; Năng lực thông tin và dữ liệu; Năng lực giao tiếp và hợp tác trong môi trường số; Năng lực sáng tạo nội dung số; Năng lực an ninh trong môi trường số; Năng lực giải quyết vấn đề trong môi trường số; Năng lực liên quan đến nghề nghiệp trong môi trường số.
Tiến hành khảo sát NLS của SV sư phạm với những biểu hiện cụ thể sau:
(1) Nhóm năng lực vận hành thiết bị và phần mềm tập trung vào những biểu hiện cụ thể sau: Làm quen với các thiết bị như: máy tính, máy chiếu, máy quét, máy in và các thiết bị điện tử; Sử dụng phần mềm, ứng dụng như: Microsof word, powerpoint, excel,…; Sử dụng các ứng dụng: google classroom, google meet,… trong quá trình học và trong thiết kế và tổ chức hoạt động học tập/thảo luận và làm việc nhóm hoặc hoạt động giảng dạy; Làm quen với việc sử dụng google form, azota, quizzi trong thiết kế câu hỏi/ kiểm tra đánh giá trong quá trình học tập; Khai thác tài liệu, thông tin trên mạng internert từ nhiều nguồn khác nhau để phục vụ hoạt động học tập và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm; Tự tin với khả năng tạo và chỉnh sửa tài liệu/báo cáo,... trên máy tính.
(2). Nhóm NL thông tin và dữ liệu của SV sư phạm: Tìm kiếm và thu thập thông tin trên mạng internet từ nhiều nguồn khác nhau; Khả năng phân tích, đánh giá các nguồn thông tin và sử dụng những thông tin này phục vụ hoạt động học tập và hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm; Thu thập, sắp xếp, phân tích và diễn giải được các nguồn thông tin trên Internet, khai thác và vận dụng trong rèn luyện nghiệp vụ sư phạm/ hoạt động học tập; Sử dụng các công cụ và phần mềm tạo ra biểu đồ và đồ thị; Vận dụng các phương pháp học tập, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm trên cơ sở dữ liệu; Biết sử dụng các ứng dụng, phần mềm trong quản lý tiến độ học tập của bản thân.
(3). NL giao tiếp và hợp tác trong môi trường số: Chia sẻ dữ liệu, thông tin và nội dung số với người khác thông qua các ứng dụng phù hợp; Sử dụng công cụ và công nghệ số để hợp tác, cùng thiết kế, tạo lập các nguồn tin và tri thức; Biết sử dụng một số ứng dụng để thiết kế các website học tập; Xây dựng được các website học tập, các khoá học/bồi dưỡng ngắn hạn trên mạng và diễn đàn trao đổi; Giao tiếp, trao đổi với người khác thông qua các ứng dụng: google classroom, zalo, facebook, Padlet,…; Sử dụng các ứng dụng trong học tập, làm việc nhóm, tự học, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm.. ; Biết sử dụng các ứng dụng hỗ trợ dạy học trực tuyến như: Zoom, zalo, google met, Microsof team để tổ chức nhóm học tập và quản lý nhóm.
(4). Nhóm NL sáng tạo số: Hiểu biết vững chắc về tạo lập, biên tập các phầm mềm, tính năng của một số phần mềm và ứng dụng: powerpoint, canva,…; Biết cách soạn, xây dựng và thiết kế những báo cáo/nhiệm vụ học tập/ bài giảng powerpoint, e-learning,…; Biên tập và xuất bản bài giảng E – learning; Soạn thảo tài liệu học tập, bài giảng đa phương tiện; Kỹ năng chèn âm thanh, hiệu ứng vào các bài giảng; Thiết kế website, fanpage, blog,… để học tập, trao đổi, hỗ trợ các hoạt động học tập; Thiết kế được các ứng dụng/phần mềm hỗ trợ học tập/ hoặc hoạt động giảng dạy.
(5). Nhóm NL an ninh trong môi trường số: Có kiến thức về luật an ninh mạng; Biết bảo quản thiết bị, nội dung, dữ liệu cá nhân và thông tin giáo dục; Có kiến thức về các biện pháp an toàn và an ninh mạng; Có kỹ năng bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư của ngừoi khác trong môi trường số; Phát hiện và phản ứng khi gặp các vấn đề an ninh mạng: virus, malware,…; Biết cách sử dụng và chia sẻ thông tin định danh cá nhân một cách an toàn; Hiểu rõ về chính sách quyền riêng tư của các dịch vụ số và cách chúng sử dụng dữ liệu cá nhân; Nhận thức về ảnh hưởng của công nghệ số và việc sử dụng chúng đối với môi trường; Có kỹ năng bảo vệ bản thân và người khác khỏi những nguy cơ như bắt nạt trực tuyến.
(6). Nhóm NL giải quyết vấn đề trong môi trường số: Nhận diện và giải quyết một cách linh hoạt các vấn đề kỹ thuật liên quan đến công nghệ; Đánh giá nhu cầu và nhận diện, đánh giá, lựa chọn, sử dụng các công cụ và công nghệ thích hợp; Có khả năng giúp đỡ người khác phát triển NLS của mình; Tìm kiếm cơ hội để tự phát triển và cập nhật quá trình phát triển của công nghệ số; Tham gia một cách cá nhân cũng như theo nhóm vào quy trình nhận thức để hiểu và giải quyết vấn đề trong môi trường số; Tham gia phát triển các hoạt động giáo dục tích cực và sáng tạo.
(7) Nhóm NL liên quan đến nghề nghiệp trong môi trường số: Áp dụng và phát triển công nghệ số đặc thù để nâng cao chất lượng hoạt động học tập; Hiểu, phân tích và đánh giá dữ liệu, thông tin và nội dung số đặc thù trong học tập, thiết kế bài giảng và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm; Làm quen với sử dụng công cụ và phương pháp phân tích dữ liệu để đo lường hiệu suất học tập, theo dõi tiến trình học tập của bản thân; Sử dụng các ứng dụng, phần mềm để xây dựng các bài giảng và nội dung giáo dục mang tính chất cá nhân hóa; Tham gia các khóa huấn luyện và đào tạo về bồi dưỡng NLS trong hoạt động dạy học; Thực hành vận dụng kỹ năng số, hiểu biết số trong thiết kế sản phẩm: tài liệu điện tử, bài giảng E - learning,.. phục vụ học tập và rèn luyện NLS trong dạy học trong tương lai
Kết quả khảo sát trên SV thể hiện ở biểu đồ sau:
Kết quả khảo sát định lượng trên SV sư phạm cho phép khẳng định: NLS của SV Trường Đại học sư phạm (qua kênh tự đánh giá đang ở mức cao và rất cao). SV đều có các biểu hiện về NLS thành phần ở mức tốt. Phỏng vấn SV N.T.H - SV năm 2 Khoa NV, được biết “Em tự nhận thấy mình có NLS ở mức tốt, vì đa phần những yêu cầu về sử dụng thiết bị công nghệ, ứng dụng trong quá trình học tập hoặc thậm chí là trong tập thực hành thiết kế hoạt động dạy học theo yêu cầu giảng viên để hoàn thành nhiệm vụ học tập các học phần nghiệp vụ cũng được em hoàn thành tốt”. Kết quả phỏng vấn cô N.N.H GV của trường được biết “SV sư phạm các em rất nhanh trong tiếp cận xu thế số trong học tập, cuộc sống đặc biệt là các năng lực về công nghệ thông tin, ứng dụng cavan trong thiết kế bài tập, sử dụng AI trong hỗ trợ hoạt động học tập,…”; SV V.A khoa NN được biết “em tự đánh giá NL sáng tạo và giải quyết vấn đề trong môi trường số chưa thực sự tốt đặc biệt là trong các lĩnh vực có liên quan đến cuộc sống, hoạt động rèn nghề trong bối cảnh số. Bản thân em còn lúng túng trong sử dụng các ứng dụng để thiết kế bài thuyết trình, trình bày; việc thiết kế các diễn đàn tương tác nhóm cũng như cách thức duy trì và đánh giá mức độ tương tác của thành viên nhóm về chủ đề học tập/nghiên cứu còn hạn chế”. Điều này cho thấy mặc dù SV tự đánh giá về NLS ở mức cao là do các em đối chiếu với yêu cầu trong quá trình học tập, tuy nhiên thực tế các em kỳ vọng cao hơn nhiều về mức độ phát triển NLS của bản thân hơn so với những yêu cầu cần đạt trong hoạt động đào tạo.
3.2. Về phát triển năng lực số cho sinh viên sư phạm
Nhận thức được bối cảnh và các điều kiện hiện nay trong giáo dục đại học, những yêu cầu về giáo dục số trong giáo dục đại học đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu cấp bách đối với trang bị NLS cho SV sư phạm, đặc biệt là NLS gắn với NL chuyên môn nghiệp vụ cũng như việc xử lý và thao tác chuyên môn trong môi trường số hiện nay là rất cần thiết. Trong bối cảnh đó, các cơ sở giáo dục đại học đã và đang tìm kiếm nhiều giải pháp, cách thức và con đường để giáo dục NLS cho SV. Những cách thức phát triển NLS cho SVtrong trường đại học tập trung: Tích hợp trong hoạt động đào tạo, tích hợp trong tổ chức hoạt động của Đoàn, Hội sinh viên; Tích hợp trong tổ chức giảng dạy các học phần trong chương trình đào tạo; Tích hợp trong phương pháp và hình thức giảng dạy,…[9], [12],[14], [15].
Bảng 1. Hình thức phát triển năng lực số cho SV sư phạm
STT |
Hình thức phát triển NLS |
Nhóm KHXH (n=94) |
Nhóm KHTN (n=111) |
GDTH (n=30) |
Chung (n=235) |
||||
Điểm |
ĐTB |
Điểm |
ĐTB |
Điểm |
ĐTB |
Điểm |
ĐTB |
||
1 |
Thông qua các học phần về Tin học, ứng dụng tin học trong chương trình đào tạo |
435 |
4,63 |
483 |
4,35 |
131 |
4,37 |
1049 |
4,46 |
2 |
Thông qua hoạt động học tập các học phần (môn học) khác trong chương trình đào tạo |
417 |
4,44 |
474 |
4,27 |
128 |
4,27 |
1019 |
4,34 |
3 |
Thông qua hoạt động học tập trực tuyến trong chương trình đào tạo |
416 |
4,43 |
457 |
4,12 |
126 |
4,20 |
999 |
4,25 |
4
|
Thông qua tham gia vào hoạt động Nghiên cứu khoa học |
401 |
4,27 |
457 |
4,12 |
115 |
3,83 |
973 |
4,14 |
5 |
Qua các học phần rèn luyện nghiệp vụ sư phạm |
414 |
4,40 |
475 |
4,28 |
118 |
3,93 |
1007 |
4,29 |
6 |
Thông qua tổ chức các hoạt động do Đoàn Thanh niên, Hội SV trường ĐHSP triển khai như: Thi thiết kế bài giảng E, Thiết kế Web học tập,… |
368 |
3,91 |
472 |
4,25 |
120 |
4,00 |
960 |
4,09 |
7 |
Thông qua các chuyên đề bồi dưỡng kỹ năng, NLS cho SV trường ĐHSP do Đoàn Thanh niên, Phòng công tác SV tổ chức; |
364 |
3,87 |
481 |
4,33 |
119 |
3,97 |
964 |
4,10 |
8 |
Tự học, tự nghiên cứu của SV |
375 |
3,99 |
486 |
4,38 |
124 |
4,13 |
985 |
4,19 |
|
ĐTB |
|
|
|
|
|
|
|
4,25 |
Thu thập thông tin khảo sát trên hệ thống, qua trả lời bảng hỏi của SV cho thấy các hình thức phát triển NLS cho GV, SV đã được nhà trường, khoa quan tâm. Các hình thức phát triển NLS cho SV đã được triển khai tại trường, SV được hỏi đều khẳng định là tham gia trong hình thức này ở mực độ cao.
Về khó khăn:
Thực trạng các khó khăn trong phát triển NLS cho SV Trường Đại học Sư phạm
STT |
Khó khăn |
KHXH (n=94) |
KHTN (n=111) |
GDTH (n=30) |
Chung (n=235) |
||||
Điểm |
ĐTB |
Điểm |
ĐTB |
Điểm |
ĐTB |
Điểm |
ĐTB |
||
1 |
Cơ sở hạ tầng và thiết bị công nghệ |
339 |
3,61 |
399 |
3,59 |
114 |
3,8 |
852 |
3,63 |
2 |
Áp lực thời gian và khối lượng học tập |
375 |
3,99 |
402 |
3,62 |
110 |
3,67 |
887 |
3,77 |
3 |
Sự hỗ trợ từ GV |
352 |
3,74 |
445 |
4,01 |
97 |
3,23 |
894 |
3,80 |
4 |
Bối cảnh thay đổi liên tục của công nghệ |
339 |
3,61 |
405 |
3,65 |
104 |
3,47 |
848 |
3,61 |
5 |
Khả năng tiếp cận, ứng dụng công nghệ của bản thân hạn chế |
341 |
3,63 |
431 |
3,88 |
106 |
3,53 |
851 |
3,62 |
ĐTB |
|
|
|
|
|
|
|
3,69 |
Bảng 2: Thực trạng khó khăn trong phát triển NLS cho SV sư phạm
Mặc dù kết quả khảo sát thực trạng NLS của SV sư phạm ở mức cao nhưng trong thực tiễn các em SV lại gặp những khó khăn trong phát triển NLS của bản thân. Kết quả khảo sát định lượng với thang Likert 5 mức cho thấy những khó khăn SV sư phạm gặp phải trong quá trình phát triển NLS tập trung: Cơ sở hạ tầng công nghệ, Áp lực học tập, Sự hỗ trợ từ phía GV, Bối cảnh thay đổi của môi trường công nghệ và khả năng tiếp cận của bản thân SV là những yếu tố cản trở đến phát triển NLS của các em. Mức độ ảnh hưởng này đến SV sư phạm thuộc các nhóm ngành khác nhau cơ bản không có sự khác biệt, chỉ có “Sự hỗ trợ từ GV” là yếu tố được SV ngành Giáo dục tiểu học lựa chọn các em gặp khó khăn này ở mức tương đối. Phỏng vấn SV M.O.T được biết “ trong quá trình học các em kỳ vọng nhiều hơn việc ứng dụng những NLS trong học tập và nghiên cứu khoa học, tuy nhiên đối với một số học phần về mặt phương pháp và nghiệp vụ tập trung rèn cho SV nghiệp vụ trong công tác giảng dạy và làm việc với HS tiểu học hạn chế yếu tố công nghệ, NLS trong quá trình học tập” do những đặc thù về đối tượng làm việc sau này của SV sau tốt nghiệp.
Phỏng vấn GV H.T.T được biết “Phát triển NLS đã được quan tâm triển khai trong hoạt động đào tạo, tuy nhiên việc đánh giá NLS trong quá trình đánh giá chuẩn đầu ra môn học chưa thực sự được quan tâm thoả đáng giữa các GV. Tần suất và mức độ áp dụng giữa các GV cũng như tổ chức có sự khác nhau”. Bên cạnh đó qua phỏng vấn, trao đổi với cán bộ quản lý cấp Khoa, Bộ môn được biết “ Phát triển NLS trong GV và SV rất được nhà trường quan tâm, nhà trường đã chỉ đạo triển khai đến GV và SV đăng ký khoá học thuộc chương trình Phát triển nhân tài số và tìm kiếm nhân tài số của Trung tâm đổi mới sáng tạo Quốc gia năm 2025, triển khai đến 100% GV và SV tham giá khoá học Bình dân học AI trong GV và SV”. Có thể khẳng định đây là một trong những hoạt động cụ thể hướng phát triển NLS trong đội ngũ GV và SV của cơ sở giáo dục tiểu học đang triển khai nhằm đảm bảo chất lượng giáo dục trong bối cảnh chuyển đổi số trong giáo dục đại học.
4. Kết luận
Năng lực số ngày càng trở thành một yêu cầu tất yếu đối với SV trong bối cảnh chuyển đổi số sâu rộng của giáo dục đại học. Việc phát triển NLS không chỉ giúp SV nâng cao hiệu quả học tập, nghiên cứu và sáng tạo học thuật mà còn chuẩn bị hành trang thiết yếu để thích ứng với thị trường lao động và xã hội số. Kết quả khảo sát định lượng cho thấy, việc hình thành và phát triển NLS cho SV tại Trường Đại học sư phạm, Đại học Thái Nguyên đã và đang được triển khai thông qua nhiều hình thức đa dạng và linh hoạt. Trong đó, nổi bật là thông qua giảng dạy các môn học tích hợp công nghệ, qua hình thức đào tạo chính quy kết hợp với môi trường số, qua các hoạt động ngoại khóa như hoạt động của Đoàn thanh niên, Hội sinh viên tổ chức và thông qua các chương trình bồi dưỡng, tập huấn chuyên đề về công nghệ giáo dục. Bên cạnh đó, thực tiễn triển khai cũng cho thấy còn những tồn tại đáng kể như: SV phải đối mặt với áp lực khối lượng học tập lớn; Cơ sở hạ tầng công nghệ; năng lực số của GV; bối cảnh môi trường giáo dục đại học đang thay đổi nhanh chóng dưới tác động của công nghệ và chuyển đổi số; năng lực tự học, tự cập nhật công nghệ và khả năng tiếp cận của SV vẫn còn những hạn chế nhất định dẫn đến hiệu quả chuyển giao phát triển năng lực số SV chưa thuận lợi. Thực tế trên cho thấy cần có những chiến lược đồng bộ và dài hạn nhằm tăng cường hiệu quả phát triển NLS cho SV sư phạm như tổ chức các khoá bồi dưỡng kỹ năng nghề nghiệp số chuyên sâu, tăng cường các hoạt động thực hành trải nghiệm công nghệ hướng tới phát triển năng lực nghề nghiệp số đồng thời hướng đến xây dựng cộng đồng SV học tập chủ động, linh hoạt và sẵn sàng hội nhập trong thời đại số.
Tài liệu tham khảo
[1] Chính phủ (2020), Phê duyệt "Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030", Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng, ngày 03 tháng 6 năm 2020.
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2025), Thông tư số 02/2025/TT-BGDĐT ngày 24 tháng 1 năm 2025 quy định Khung năng lực số cho người học.
[3] European Commission (2022), The Digital Competence Framework 2.2: DigComp 2.2 (Khung năng lực số 2.2), Publications Office of the European Union.
[4] UNESCO (2018), Digital literacy in education: Policy brief (Sự hiểu biết về kỹ năng số trong giáo dục: Báo cáo chính sách), United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization.
[5] Lê Văn Hảo (2021), Năng lực số trong bối cảnh chuyển đổi số giáo dục Việt Nam, Tạp chí Giáo dục và Xã hội, (127), 34–38.
[6] Nguyễn Thị Hạnh (2022), Đánh giá năng lực số của sinh viên trong môi trường học trực tuyến, Tạp chí Khoa học Giáo dục, 200(2), 45–51.
[7] UNESCO. (2018), ICT Competency Framework for Teachers – Version 3 (Khung năng lực CNTT cho giáo viên – Phiên bản 3). United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization.
[8] Trần Thị Tuyết Oanh (2020), Năng lực số của sinh viên sư phạm trong bối cảnh chuyển đổi số giáo dục, Tạp chí Giáo dục, (487), 23–27.
[9] Vũ Văn Hùng. (2022), Phát triển năng lực công nghệ thông tin cho sinh viên sư phạm: Một yêu cầu cấp thiết trong đào tạo giáo viên hiện nay, Tạp chí Khoa học Giáo dục, 200(4), 55–60.
[10] Nguyễn Văn Hiền (2009), Hình thành cho sinh viên kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin để tổ chức bài dạy Sinh học, Luận án Tiến sĩ, Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
[11] Thái Hoài Minh, Trịnh Văn Biều (2016), Xây dựng khung năng lực ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học cho sinh viên sư phạm hóa học, Tạp chí khoa học Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (t7 (85). 2016).
[12] Lê Thị Kim Loan (2019), Phát triển năng lực công nghệ thông tin trong dạy học cho sinh viên sư phạm ở trường đại học, Luận án Tiến sĩ Gíao dục học, Bảo vệ tại Trường Đại học sư phạm Hà Nội.
[13] Hà Thị Lan Hương (2019), Đề xuất một số năng lực sư phạm 4.0 của sinh viên đại học sư phạm, HNUE JOURNAL OF SCIENCE 2019, Volume 64, Issue 2A, pp. 38-49.
[14] Phan Thị Tình (2021), Phát triển năng lực công nghệ thông tin cho sinh viên ngành Giáo dục tiểu học ở trường sư phạm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, Tạp chí Khoa học Giáo dục Việt Nam, số 42, tháng 6/2021, tr.28-33.
[15] Thái Hoàng Minh (2018), Phát triển năng lực ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy cho sinh viên sư phạm Hoá học các trường đại học, Luận án Tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
[1] Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.">This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.