Kỳ 2: Sự ra đời những ngành học chưa có mã số
+ Phân tầng mục tiêu đào tạo trong bậc đại học
+ Hợp đồng khoán quản đầu tiên trong giáo dục – sự ra đời của Khoa Anh ngữ
+ Kiểm tra lại trình độ thầy dạy tiếng Anh
+ Sự ra đời của Khoa Quản trị Kinh doanh, Khoa Tin học - “Công thức 3B”,Khoa Đông Nam Á học, Khoa Phụ nữ học, Khoa Công thôn.
Phân tầng mục tiêu đào tạo trong bậc đại học
Sự khác biệt giữa đại học (ĐH) mở với đại học truyền thống thể hiện trên hai phương diện: tổ chức đào tạo và phương thức đầu tư.
Công tác đào tạo của các trường ĐHtruyền thống được tổ chức khép kín từ khâu tuyển sinh, tổ chức lớp học lý thuyết, thí nghiệm thực hành, đi thực tế, luôn luôn có sự hướng dẫn trực tiếp của giảng viên(GV); tổ chức thi kiểm tra, xét lên lớp, thi tốt nghiệp theo quy trình khép kín được hành chính hóa chặt chẽ.
Trong khi đó ở các ĐH mở, người học ghi danh tự do theo học, người học có thể đến lớp học, có thể qua tài liệu sách vở, học qua phát thanh, qua cầu truyền hình, qua đào tạo trực tuyến và mạng internet. Quá trình học tập là quá trình sàng lọc liên tục, chỉ có những người đạt được các yêu cầu tiêu chuẩn đặt ra cho một cấp học mới được nhận bằng tốt nghiệp. Đại học mở là ĐH của mọi người, vì mọi người, cho mọi người, mọi người được quyền bình đẳng hưởng thụ thành quả của nền giáo dục và có nghĩa vụ đóng góp xây dựng phát triển nó. Vì vậy, việc lựa chọn ngành nghề đào tạo, xác định mục tiêu đào tạo, hình thức đào tạo, chất lượng đầu ra cần phải xác định rõ. Đây là sự khác biệt cơ bản về vị thế và sứ mệnh của ĐH mở với các ĐH quốc gia và ĐH truyền thống đã được chúng tôi xác định ngay từ đầu.
Sự lựa chọn chính xác mục tiêu, chương trình, nội dung và hình thức đào tạo sẽ cho phép nhà trường quyết định tổ chức nguồn lực (con người và vật chất) nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo.
Bất kỳ một sản phẩm nào ra đời phải trải qua hai giai đoạn chủ yếu sau:
- Giai đoạn đầu: Các nhà công nghệ dựa vào tên loại sản phẩm, yêu cầu chất lượng sản phẩm sẽ nghiên cứu tạo ra dây chuyền công nghệ, những cán bộ thực hiện nhiệm vụ này được đào tạo theo một chương trình nặng về tính lý thuyết, sự khác biệt chủ yếu ở phần cơ sở kỹ thuật.
- Giai đoạn sau: Sau khi có dây chuyền công nghệ để tạo ra sản phẩm, cần có những cán bộ hiểu biết công nghệ để tổ chức khai thác. Chương trình đào tạo cán bộ kỹ thuật cho giai đoạn này được thiết kế rút ngắn thời gian và khối lượng kiến thức ở phần cơ sở kỹ thuật, tăng cường khối lượng kiến thức ở phần chuyên ngành.
Việc tổ chức đào tạo cán bộ khoa học phục vụ cho giai đoạn đầu (đào tạo kỹ sư công nghệ) từ khâu tuyển chọn đầu vào đến tổ chức giảng dạy lý thuyết và thực hành phải được tổ chức theo quy trình khép kín dưới sự hướng dẫn trực tiếp của các GV từ lý thuyết trên lớp đến thực tập tại các phòng thí nghiệm, trạm trại thực nghiệm.
Xuất phát từ những đặc điểm nêu trên, Viện Đào tạo Mở rộng (Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh) xác định mục tiêu đào tạo chung của nhà trường là đào tạo kỹ sư và cử nhân thực hành, tức là đào tạo kỹ sư, cử nhân khai thác (các ĐH truyền thống, ĐH quốc gia đào tạo kỹ sư công nghệ vì đào tạo dạng cán bộ này cần sự đầu tư của nhà nước).
Như vậy, trong những năm cuối thế kỷ XX, Viện Đào tạo Mở rộng (Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh) đã tiến hành phân tầng mục tiêu đào tạo, xác định vị thế và sứ mệnh của nhà trường, tạo nên sự khác biệt giữa ĐH mở và các ĐH quốc gia, ĐH truyền thống.
Cùng với đó, Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh (Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh) cũng đề ra cho mình nhiệm vụ rất rõ ràng: Tổ chức triển khai các chương trình đào tạo, bồi dưỡng phục vụ cho đại đa số quần chúng lao động, hướng đến đào tạo nguồn lực cho nền kinh tế mở - kinh tế thị trường. Vì vậy, ngoài việc xác định rõ mục tiêu đào tạo như trên đã đề cập, vấn đề lựa chọn ngành nghề đào tạo, định hướng ưu tiên là rất quan trọng, tạo thế để Đại học Mở thật sự trở thành một “siêu thị tri thức”.
Trong lễ ra mắt Viện Đào tạo Mở rộng (ngày 20 tháng 7 năm 1990) tôi đã nêu ra những nguyên tắc lựa chọn ngành nghề của Viện Đào tạo Mở rộng, đó là:
- Phải lựa chọn và ưu tiên cho những ngành nghề có nhu cầu lâu dài, được đông đảo quần chúng quan tâm.
- Ưu tiên cho những ngành ít đầu tư trang thiết bị, thuận lợi cho triển khai theo phương thức đào tạo từ xa qua công nghệ truyền thông và công nghệ thông tin (CNTT).
Những nguyên tắc nêu trên đã được hội nghị thống nhất, dựa vào các nguyên tắc đó, Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh xác định 3 ngành nền tảng của Viện là: Tiếng Anh, Tin học và Quản trị Kinh doanh. Đây là những kiến thức có tính công cụ để mọi người hòa nhập vào nền kinh tế mở, kinh tế thị trường.
Về sau này, biết tiếng Anh, biết Tin học, biết Quản trị đã trở thành công thức “3B” (ba biết) của Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh (Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh).
Công thức “3B” được đưa vào cho tất cả các chương trình đào tạo các ngành khác như: Phụ nữ học, Công thôn, Đông Nam Á học, Công nghệ Sinh học, Báo chí học, Luật học,…
Việc xác định mục tiêu đào tạo, yêu cầu chất lượng đào tạo,ngành nghề đào tạo, phương thức đào tạo đã tạo cho Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh một diện mạo khác biệt, bù đắp cho những khiếm khuyết trong hệ thống giáo dục ĐH Việt Nam trong quá trình đổi mới.
Hợp đồng khoán quản đầu tiên trong giáo dục – sự ra đời của Khoa Anh ngữ
Tôi phải đề cập đến vấn đề này trước tiên vì chính nó sẽ giúp giải tỏa vấn đề “đầu tiên – tiền đâu” trong những ngày đầu của Viện Đào tạo Mở Thành phố Hồ Chí Minh.
Lúc bấy giờ quyết định thành lập Viện đã có nhưng chưa có cơ chế, không kinh phí, không có đội ngũ. Làm thế nào để giải quyết cả hai vấn đề ấy cùng một lúc là nỗi băn khoăn lớn nhất của tôi lúc đó. Trong điều kiện vẫn còn nặng tư duy bao cấp, tôi nhận ra phải ưu tiên những ngành đào tạo không cần nhiều đầu tư trang thiết bị, đồng thời phải coi việc lựa chọn trưởng khoa là yếu tố quyết định.
Một trong những ngành tôi muốn mở đầu tiên lúc đó là Anh ngữ, tôi đã gặp một số thầy Anh ngữ nhưng chưa lựa chọn được người phù hợp. Tôi trao đổi việc này với người bạn học từ nhỏ - anh Nguyễn Văn Hanh, nguyên Hiệu trưởng Đại học Nông Lâm rằng tôi muốn mời anh Đinh Quang Kim – Giám đốc Trung tâm Anh ngữ Đại học Nông Lâm về làm Trưởng khoa. Anh Hanh nói nếu anh Kim nhận lời thì rất tốt, nhưng anh Kim còn đang đương chức, làm sao có thể kiêm nhiệm được?
Một hôm anh Hanh điện thoại thông báo cho tôi rằng anh Kim đã xin từ chức ở Đại học Nông Lâm, anh Hanh khuyên tôi tiếp xúc thương thuyết với anh Kim ngay vì anh ấy đang có ý định tìm việc ở một nơi khác. Ngay chiều hôm đó, tôi lên khu kiến thiết huyện Thủ Đức tìm đến nhà anh Kim (tôi và anh Kim đã biết nhau từ lúc tôi còn ở Đại học Cần Thơ). Nghe tiếng chuông, anh Kim ra mở cửa, chúng tôi thân mật bắt tay:
- Tôi có nghe anh Hanh nói nhiều về anh – anh Kim chào tôi theo cách riêng của mình.
- Tôi cũng vậy, đã nghe biết về anh, tôi lên đây muốn mời anh về cùng xây dựng Trung tâm Anh ngữ của Viện Đào tạo Mở Thành phố Hồ Chí Minh mới thành lập – Tôi nói.
- Tại sao không là Khoa Anh ngữ mà là Trung tâm? – Anh Kim hỏi lại tôi.
- Khoa cũng được, tôi tán thành, tuy nhiên vấn đề là nếu đào tạo cử nhân Anh ngữ thì phải thực hiện một số thủ tục, phải xây dựng mục tiêu, chương trình, nội dung đào tạo, phải có đội ngũ đủ trình độ giảng dạy ĐH theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT), như vậy sợ làm không kịp, mà tôi lại muốn khai giảng vào tháng 9 tới - Tôi giải thích với anh Kim.
- Tôi làm được, anh xây dựng Khoa Anh ngữ đi, tôi sẽ hợp tác với anh – Anh Kim trả lời một cách dứt khoát và tiếp sau đó, anh Kim hỏi thêm: nếu vậy, tôi với anh làm việc với nhau theo hình thức nào? Nhiệm vụ, quyền lợi, quyền hạn của tôi đến đâu?
Tôi không ngờ anh Kim đồng ý nhanh như vậy!
- Tôi phải nói để anh rõ, Viện mới có tên trên danh nghĩa, không thầy, không tiền, không có trường lớp, tôi không thể trả lương cho anh ngay được, anh phải tự trả lương cho anh – Tôi đáp.
- Bằng cách nào? - Anh Kim hỏi.
- Thông qua hợp đồng khoán quản! tôi lo thủ tục, chịu trách nhiệm xây dựng cơ sở vật chất (CSVC), anh chịu trách nhiệm về chuyên môn, tổ chức quản lý đào tạo,… Lương, phụ cấp của anh tùy thuộc năng suất và hiệu quả hoạt động của khoa, khoa chịu trách nhiệm trước Viện trưởng, tuân thủ các quy định đào tạo của Bộ và Viện – Với nụ cười trên môi, tôi trả lời anh Kim.
- Tỷ lệ bao nhiêu vậy? – Anh Kim vui vẻ hỏi.
- 60 – 40, Khoa giữ 60% trên tổng thu học phí để chi trả lương cho cán bộ nhân viên,thầy cô giáo, trang thiết bị và quản lý phí của khoa; 40% còn lại dành cho nhà trường. Ngoài ra trường sẽ trả lương cho anh và khoảng 3 – 4 cán bộ khung của khoa, trường đóng bảo hiểm xã hội cho cán bộ khung của khoa. Số 60% dành cho khoa quy thành 100% được chi như sau:
+ 50% chi trả thù lao giảng dạy, lương của cán bộ nhân viên do Khoa tuyển.
+ 25% chi đầu tư trang thiết bị phục vụ đào tạo.
+ 10% quản lý phí của chủ nhiệm khoa.
+ 10% chi cho khen thưởng.
+ 5% đưa vào quỹ dự phòng.
Tôi nói thêm là tài chính thu chi tập trung tại phòng Tài vụ của Viện, anh Kim đề nghị điều chỉnh tỷ lệ thành 70 – 30 vì bước đầu còn nhiều khó khăn, tôi đồng ý nhưng cũng lưu ý là sau một thời gian tỷ lệ này sẽ được thỏa thuận lại phù hợp với tình hình phát triển của Viện. Như vậy, hợp đồng khoán quản đầu tiên trong giáo dục được ký kết tại Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh, kèm theo quyết định thành lập khoa Anh ngữ và TS. Đinh Quang Kim được bổ nhiệm làm Trưởng khoa đầu tiên của Viện vào ngày 25 tháng 7 năm 1990.
Ngày 26 tháng 7 năm 1990, TS. Cao Văn Phường – Viện trưởng Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh ký hợp đồng khoán quản với TS. Đinh Quang Kim xây dựng Khoa Anh ngữ
Khoán quản là khái niệm chưa từng có trong giáo dục, vì vậy khi Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện công tác khoán quản có rất nhiều ý kiến phản bác, không đồng tình, thậm chí có người còn báo cáo lên Bộ là Viện đang “khoán trắng”, chỉ những người ở trong hoàn cảnh cụ thể của Viện mới thấy được ý nghĩa của việc khoán quản, đó là:
- Phân cấp trong quản lý, tạo thế cho cơ sở phát huy tính chủ động, sáng tạo trong tổ chức khoa. Việc nhà trường ký hợp đồng trả lương và đóng bảo hiểm cho 5 cán bộ khung của khoa, gồm: Trưởng phó khoa, Trợ lý, Thư ký khoa là cách làm thể hiện sự quản lý của cấp trường về mặt tổ chức. Cũng như vậy, các khoa giới thiệu danh sách lý lịch hội đồng khoa học (HĐKH) và đào tạo của khoa, giới thiệu các trưởng bộ môn, và sau khi được thỏa thuận của Viện trưởng, Trưởng khoa ký hợp đồng trả lương, Viện trưởng ra quyết định công nhận.
- Chương trình đào tạo được các khoa chủ động xây dựng và thông qua HĐKHđào tạo khoa, sau đó trình Viện trưởng, Viện trưởng sẽ mời chuyên gia thẩm định trước khi duyệt.
- Về mặt tài chính: Tùy tình hình thực tế các khoa mà Viện sẽ có những thỏa thuận về tỷ lệ phân bổ phần trăm giữa Viện và các khoa, trong tỷ lệ % để lại khoa được quy định phần chi trả cho GV qua hợp đồng giảng dạy, phần chi cho đầu tư xây dựng CSVC đảm bảo cho đào tạo, phần chi cho quản lý phí, Trưởng khoa quyết định tỷ lệ % khen thưởng – dự phòng, đào tạo cán bộ… Tất cả hoạt động tài chính tập trung tại Phòng Tài vụ của trường, các đơn vị không được lập quỹ đen, quỹ đỏ. Viện chịu trách nhiệm đóng bảo hiểm cho người lao động.
Trong điều kiện ban đầu của Viện, chủ trương khoán quản đã giúp cho Viện tập hợp được đội ngũ cán bộ khoa học có năng lực, những cán bộ năng động sáng tạo, không ỷ lại trông chờ vào kinh phí nhà nước. Cơ chế này tạo cho các Trưởng khoa những quyền lợi nhất định để họ chủ động sáng tạo, góp sức xây dựng Viện. Phải khẳng định, chủ trương khoán quản đã tạo ra động lực lao động và đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thành công của Viện.
Kiểm tra lại trình độ thầy dạy tiếng Anh
TS. Đinh Quang Kim được đào tạo ở ĐH Mỹ về ngôn ngữ và giáo dục học. Là người có nhiều sáng kiến, anh thuộc lớp người có tư duy độc lập, rất khó thuyết phục. Từ năm 1975 đến năm 1990, anh làm việc rất nhiều nơi, nhưng không nơi nào làm được quá 3 năm. Lớp dự bị ĐH của Khoa Anh ngữ ngày càng đông, khu 97 Võ Văn Tần không đủ chỗ để tiếp nhận sinh viên (SV) (SV có cả sư sãi, văn nghệ sĩ, doanh nhân).
Trong số GV Anh văn ở các lớp ĐH tiếng Anh, có nhiều thầy trình độ giảng dạy chưa phù hợp. Là chủ nhiệm khoa, đúng nghĩa là người quản lý chuyên môn, các buổi học TS. Kim thường đi rảo quanh các lớp lắng tai nghe thầy giảng bài. Tất cả các thầy giáo phải giảng bằng tiếng Anh, thấy thầy giáo nào giảng chưa đúng, anh Kim thường vào dừng lại và tự mình giảng thử. Việc làm này bị nhiều GV phản ứng.
Anh Kim gặp tôi rất bức xúc nêu ý kiến, nhiều thầy giáo giảng kém quá, đề nghị Viện trưởng cho phép tôi kiểm tra họ trước khi Viện ký hợp đồng.
- Anh kiểm tra bằng cách nào? – tôi hỏi lại.
- Tôi sát hạch họ chứ cách nào? – anh Kim trả lời.
- Đâu được, họ vốn là GV của các trường ĐH, anh làm vậy không chỉ đụng chạm đến cá nhân họ mà còn đụng chạm với các trường.
- Kệ họ, vấn đề là chất lượng cho người học. Tại sao mình không thể làm theo cách tốt hơn? Có khi mình lại còn làm gương cho họ ấy chứ… - anh Kim đáp lại.
- Tôi đề nghị anh mời thầy Dương Thiệu Tống tham gia vào việc kiểm tra này, anh thấy sao? – tôi đã bị cách làm của anh Kim thuyết phục.
- Tốt lắm, làm thế được đấy, Viện trưởng đã đồng ý nhé, đề nghị Viện trưởng ký vào đây – anh Kim đã chuẩn bị trước thông báo của Viện cho phép Trưởng khoa Anh ngữ kiểm tra trình độ thầy giáo.
- Ký cái gì? Thôi “ông” đừng ép tôi như thế, tôi đã đồng ý là tôi bảo vệ ông rồi. Nói vậy nhưng tôi thực sự quý tác phong làm việc nghiêm túc và có trách nhiệm của anh Kim.
- Thôi cũng được – anh Kim bước vội.
Hôm sau, công việc sát hạch các giáo viên Anh ngữ được thực hiện ngay.
Việc làm này vào lúc đó bị các thầy phản ứng quyết liệt, nhưng dư luận SV ủng hộ. Tin đồn lan rộng ra, xã hội phản hồi rất tích cực.
Việc làm này “độc nhất vô nhị” chỉ có ở Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh thời ấy, còn bây giờ thì sao?
Tôi muốn nói thêm vài dòng về anh Kim. Anh là một Trưởng khoa tài giỏi, năng động, tư duy độc lập. Anh đã giúp tôi rất nhiều với vai trò phản biện khoa học và những vấn đề hợp tác quốc tế. Ngoài công việc, chúng tôi còn có một tình bạn, rất hiểu nhau, mặc dù từng xảy ra tranh cãi trong xử lý vụ việc. Khoảng tháng 9 năm 1995, khi nghe tin Bộ sắp thay tôi, cử ông Đ và ông H về lãnh đạo Viện, anh (và chị) nói với Chị Thanh – kế toán trưởng: “Làm việc thất đức quá, ông Phường nghỉ tôi cũng nghỉ”. Và sau đó, anh cũng nghỉ thật, rồi ra đi sau một thời gian dài lâm bệnh. Sự sống đã tắt nhưng không hiểu sao mắt anh vẫn mở, mặc dù Chị Mỵ (vợ anh) và anh Hanh đã cố vuốt mắt. Nghe tin, tôi và nhà tôi vội đến ngay. Tôi nói: “Anh Kim ơi, thôi anh hãy bỏ qua mọi chuyện mà yên nghỉ cho vợ con và bè bạn thanh thản”, và vuốt nhẹ lên đôi mắt anh, tự nhiên nước mắt anh trào ra rồi hai mắt mới từ từ nhắm lại trước sự chứng kiến của anh Đỗ Trình và gia đình.
Năm 1991, khi sang làm việc với các ĐH bạn ở Thái Lan, tôi có đến thăm ông bà thân sinh của anh Kim ở Chiang Mai. Ông cụ là cơ sở cách mạng do bác Trần Văn Giàu gây dựng. Lúc còn thanh xuân, anh Kim cũng từng rất tích cực tham gia phong trào thanh niên ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến trong nước.
Sự ra đời của những ngành nghề chưa có mã số
1. Sự ra đời của Khoa Quản trị Kinh doanh:
Chiều ngày 25 tháng 6 năm 1990, PGS.PTS. Nguyễn Quang Toản và anh Cao Xuân Tiến (là bạn học thời nghiên cứu sinh với tôi ở Ba Lan) đến thăm tôi tại phòng riêng ở 97 Võ Văn Tần, anh Toản mở đầu bằng lời chào: “Bọn mình nghe ông lên thành phố từ tháng 4, đến nay mới có dịp ghé thăm ông được”.
- Rất mừng gặp lại hai anh, bác Tiến đã có gia đình chưa? – Tôi chào lại hai anh.
- Gia đình ai mà không có! – anh Tiến đáp, rồi đột nhiên hỏi: “Ông định xây dựng Viện bằng cách nào, bọn mình có thể giúp gì cho ông không?”
- Các bác giúp thì tốt quá, mình đang định trong năm 1990 xây dựng trước một số ngành tiếng Anh, Tin học, Kinh tế làm nòng cốt cho Viện. – Tôi vui mừng trả lời.
- Tôi với ông Tiến sẽ giúp ông xây dựng ngành Quản trị Kinh doanh, ngành này đang có nhu cầu. – Anh Toản sốt sắn.
Vậy là PGS. Nguyễn Quang Toản và anh Cao Xuân Tiến nhận lời xây dựng chương trình đào tạo ngành Quản trị Kinh doanh, sự việc diễn ra thật là đúng lúc.
Một tuần sau, PGS. Nguyễn Quang Toản đưa chương trình đào tạo và danh sách đội ngũ cán bộ HĐKH của khoa, tôi đề nghị PGS. Toản ký vào chương trình để Viện trình Bộ GD&ĐT.
Vào những năm 90 thế kỷ XX, không chỉ ở Việt Nam mà hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa, ngành Quản trị Kinh doanh là ngành xa lạ. Nó xa lạ ở chính triết lý đào tạo, được cho là phi mác xít, nhưng theo đuổi một nền kinh tế thị trường thì không thể không mở một ngành học về nó.
Qua nhiều lần trao đổi với các nhà khoa học, tháng 9 năm 1990, Viện quyết định thành lập Khoa Quản trị Kinh doanh (đây cũng là Khoa Quản trị Kinh doanh đầu tiên ở Việt Nam). Nhưng ai sẽ là Trưởng khoa? Tôi đã đề nghị PGS. Toản hoặc anh Tiến, nhưng cả hai đều trả lời là không thể vì đang đảm trách công tác quản lý ở Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh, các anh giới thiệu cho tôi một số cán bộ khoa học, Viện thương thuyết nhưng chưa có kết quả vì nhiều lý do.
Sáng chủ nhật ngày 18 tháng 9 năm 1990, theo lời giới thiệu của PGS. Toản, PGS.PTS. Vũ Thế Phú – GV Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đến thăm tôi. PGS.PTS. Vũ ThếPhú đi ngay vào vấn đề:
- Anh Toản có giới thiệu về anh và cho biết Viện đang có ý định xây dựng ngành Quản trị Kinh doanh.
- Anh vào thành phố lâu chưa? Chị và các cháu đang làm gì? Ở đâu? – Tôi hỏi anh Phú.
- Vợ tôi đang công tác ở Khoa Sinh, Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh – Anh Phú trả lời.
- Anh đã nghiên cứu chương trình đào tạo này chưa? – Tôi đưa chương trình đào tạo do PGS. Nguyễn Quang Toản và PTS. Cao Xuân Tiến biên soạn cho anh Phú và hỏi.
- Tôi đã nghiên cứu chương trình này rồi, nước mình chưa có ngành đào tạo Quản trị Kinh doanh, chương trình này chủ yếu xây dựng dựa trên chương trình Quản trị Kinh doanh của các nước, cộng thêm các môn bắt buộc của Bộ GD&ĐT cho các ngành kinh tế ở Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội. – Anh Phú trả lời.
Anh Phú rất thành thật và trực tính, tôi thấy mến và quý anh.
- Anh giúp Viện xây dựng khoa Quản trị Kinh doanh được không? Nếu anh nhận lời làm việc với Viện, anh có gặp khó khăn gì với bên Đại học Kinh tế không? – Tôi đề nghị và hỏi anh Phú.
- Tôi chỉ là GV, không làm công tác quản lý, chắc không có gì trở ngại đâu! – Anh Phú giải thích.
- Không có gì chắc chắn cả, nếu cơ quan chủ quản không đồng ý để anh tham gia công tác với Viện, anh tính sao? – Tôi tiếp lời anh Phú.
- Chắc tôi phải lựa chọn ở lại với SV mà tôi quản lý thôi. – Anh Phú vừa cười vừa đáp.
- Vậy anh có đề xuất gì với Viện không? – Tôi cảm ơn và hỏi anh Phú.
- Các khoa thế nào thì tôi thế đó cho công bằng. – không chần chừ suy nghĩ, anh Phú trả lời ngay.
- Mỗi khoa có những điều kiện khác nhau, tôi với anh thỏa thuận với nhau là công bằng, công bằng cục bộ. Khoa Ngoại ngữ tổ chức lớp không quá 40 SV, còn khoa của anh có thể tổ chức lớp lớn hơn nên tỷ lệ khoán cho Khoa Quản trị Kinh doanh theo tỷ lệ 55% trên tổng thu dành cho Khoa chi trả lương cho cán bộ nhân viên, chi thù lao giảng dạy, quản lý phí, khen thưởng; 45% còn lại Viện giữ lại để xây dựng Viện. Viện ký hợp đồng với anh, anh có 5 biên chế cán bộ khung do Viện trả lương, còn các cán bộ khác do khoa ký hợp đồng và trả lương, anh nghiên cứu nếu được thì cho Viện biết ý kiến của anh. – Tôi giải thích thêm với anh Phú.
- Không cần phải suy nghĩ gì đâu, tôi đồng ý làm việc với Viện. – Anh Phú vẫn giữ thái độ nhiệt tình không tính toán.
Sau một tuần, anh Phú giới thiệu cho tôi danh sách HĐKH và đào tạo, danh sách GV, bao gồm: GS.TS. Phó Bá Long, PGS.PTS. Nguyễn Quang Toản,PTS. Cao Xuân Tiến, TS. Nguyễn Văn Ngôn, TS. Phan Tiến Chức, TS. Lương Hữu Định, ThS. Nguyễn Đình Quế, TS. Trần Anh Tuấn, PGS.TS. Đồng Thị Thanh Phương, PGS.PTS. Võ Thanh Thu, ThS. Nguyễn Hữu Thân, ThS. Trần Văn Khiêm, TS. Nguyễn Văn Xuân,…
Ngày 20 tháng 9 năm 1990, Viện ký hợp đồng với PGS.PTS. Vũ Thế Phú và quyết định thành lập Khoa Quản trị Kinh doanh, khoa thứ hai của Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh, PGS.PTS. Vũ Thế Phú được bổ nhiệm làm Trưởng khoa.
Tháng 12 năm 1990, Viện tuyển sinh khóa I ngành Quản trị Kinh doanh theo hình thức xét tuyển dựa vào kết quả thi tốt nghiệp Trung học Phổ thông và kết quả học tập hai năm cuối cấp III. Khóa I, tuyển 1.500 SV, đến năm 1992 đã có 6.000 SV. Năm 1995, số SV đã lên đến 15.000, dẫn đầu toàn Viện về số lượng.
Sự ra đời của ngành Quản trị Kinh doanh có nhiều ý kiến khác nhau trong lãnh đạo của Bộ DG&ĐT, có ý kiến lo ngại “Đây là ngành học của nền kinh tế thị trường phương Tây, chương trình và nội dung đào tạo chưa được Bộ phê duyệt, việc giảng dạy như thế nào! Liệu có đi chệch đường lối của Đảng và Nhà nước không?”. Mặc dù vậy, lãnh đạo Bộ vẫn cho phép Viện tổ chức giảng dạy thử nghiệm.
Gần hai năm sau, các trường ĐH kinh tế cũng bắt tay vào xây dựng ngành Quản trị Kinh doanh.
Ngày nay, hầu hết các trường ĐH đều có ngành học này vì nhu cầu thực tế của xã hội và nền kinh tế mở - kinh tế thị trường. Trong bài báo của tác giả Fergusm Bordewich, tạp chí Reader’s Digest, Hoa Kỳ tháng 4 năm 1994 có viết về SV ngành Quản trị Kinh doanh Trường Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh. SV khóa I năm 1990 tốt nghiệp ra trường vào năm 1994.
Xuất phát từ đường lối đổi mới và nhu cầu thực tế, kinh tế nước ta từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Ngành Quản trị Kinh doanh với các môn: tiếp thị, thị trường chứng khoán, luật kinh doanh quốc tế, nghệ thuật đàm phán trong kinh doanh, tâm lý trong kinh doanh trở nên rất cần thiết cho cán bộ và nhân dân.
Đã đến lúc các lớp học mở ghi danh không thể đáp ứng nhu cầu học tập của quần chúng lao động. Vì vậy, năm 1993 sau khi xem xét các điều kiện về đội ngũ cán bộ, khả năng tổ chức, Viện đã đề nghị Bộ GD&ĐT cho phép Viện mở thí điểm chương trình đào tạo từ xa qua đài phát thanh ngành Quản trị Kinh doanh.
Được sự chấp thuận của Bộ GD&ĐT, tháng 3 năm 1993, Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh kết hợp với Đài tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh triển khai chương trình đào tạo ngành Quản trị Kinh doanh trên sóng phát thanh. Chương trình đã được sự đồng tình ủng hộ của lãnh đạo và nhân dân các tỉnh phía Nam.
Khoa Quản trị Kinh doanh của PGS.PTS. Vũ Thế Phú là khoa mở đầu chương trình đào tạo từ xa qua phát thanh ở Việt Nam, đáp ứng nhu cầu học tập nâng cao trình độ của đại đa số quần chúng nhân dân lao động, đồng bào vùng sâu vùng xa. Về loại hình giáo dục mở này (đào tạo từ xa), tôi sẽ đề cập trong kỳ sau.
2. Khoa Công nghệ Thông tin và Công thức 3B:
Ngày 30 tháng 6 năm 1990, tôi đến Phân viện Công nghệ Thông tin do PGS.PTS. Trần Thành Trai làm Phân Viện trưởng. Vào những năm 1967 – 1970, PGS.PTS.Trần Thành Trai công tác tại Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước, còn tôi làm công tác thư ký Ban Cơ học, chúng tôi là người quen biết cũ. Biết Viện Đào tạo Mở rộng có ý định thành lập Khoa Công nghệ Thông tin, PGS.PTS. Trần Thành Trai rất nhiệt thành: “Ông xây dựng Khoa Công nghệ Thông tin là đúng rồi, ở Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, chỗ anh Lý Hòa có chương trình Toán – Tin và Trung tâm Tin học Ứng dụng, chưa có chương trình đào tạo ĐHCNTT hoàn chỉnh, mình sẵn lòng ủng hộ bạn, mình có thể cử cán bộ tham gia giảng dạy cho khoa, tuy nhiên mình còn đương chức, không thể tham gia quản lý bên Phường được.” PGS.PTS. Trai giới thiệu cho tôi một vài cán bộ tin học, nhưng tôi không có điều kiện tiếp xúc. Dù sao, CNTT là một trong những ngành học tôi cho là “cơ bản”, luôn luôn là cái gai trong tâm trí một khi Viện Đào tạo Mở rộng chưa mở được ngành này.
Một hôm anh Phú (Việt kiều) đến Viện đề nghị gặp tôi, anh Phú rất nhiệt tình, sau vài câu chào hỏi xã giao anh đặt vấn đề: “Tôi biết Viện đang cần xây dựng Khoa Công nghệ Thông tin, tôi có thể hợp tác với Viện để làm việc này.”
- Xin lỗi anh Phú, hiện anh đang ở đâu? Anh đã về nước hẳn chưa? Anh hợp tác với Viện bằng cách nào? – Tôi hỏi.
- Tôi cử chuyên gia sang làm việc, tổ chức giảng dạy và đầu tư trang thiết bị cho khoa, trước mắt có thể là 50 máy tính cho phòng thực tập. – Anh Phú tiếp lời.
Tối hôm sau, theo lời giới thiệu của anh Phú, một thanh niên khoảng 28 – 29 tuổi, có vẻ là một người cận thị nặng đến Viện gặp tôi. Đó là Kỹ sư Toán – Tin Phạm Hữu Trí – Giám đốc Phòng Kỹ thuật nhà in Liksin. Phạm Hữu Trí rất ít nói và có vẻ khó giao tiếp. Tôi mở đầu: “Anh Phú đã trao đổi với anh công việc phải làm chưa? – “Dạ chưa!” – Anh Trí đáp.
Tôi nói lại ý định xây dựng Khoa Tin học với Kỹ sư Phạm Hữu Trí, nhưng tôi rất lo ngại vì anh Trí chỉ là Kỹ sư, không biết có lãnh đạo và tổ chức Khoa Tin học với chương trình ĐH được không!
- Anh có thể dự thảo cho tôi chương trình đào tạo bậc ĐH được không? – Tôi hỏi anh Trí.
- Dạ được – Kỹ sư Trí nhanh nhẹn trả lời.
- Vậy anh xây dựng cho tôi mục tiêu, chương trình đào tạo kỹ sư tin học thực hành, không phải đào tạo toán tin như Đại học Tổng hợp, xây dựng đề án thành lập Khoa Tin học và đề xuất cơ chế tài chính theo hình thức khoán quản cho khoa. – Tôi yêu cầu anh Trí.
Nghe nói cơ chế khoán quản, Kỹ sư Phạm Hữu Trí liền hỏi:
- Tỷ lệ bao nhiêu?
- 60% - 40% - Tôi trả lời ngắn ngọn
- Vậy hơi ít, khó khăn cho khoa đầu tư, hoàn vốn – Anh Trí có vẻ cởi mở hơn.
- Được rồi, anh cứ về xây dựng chương trình và đề án thành lập khoa đi, còn cơ chế tài chính do mình đặt ra, tôi với anh tính sau! – Tôi nói.
- Tôi muốn thống nhất trước tỷ lệ khoán. – Anh Trí rất kiên định.
- Làm sao thống nhất ngay được khi tôi chưa biết anh sẽ đầu tư CSVC bao nhiêu! Khi nào có phương án chúng ta tiếp tục thảo luận. – Tôi giải thích với anh Trí.
Chúng tôi chia tay nhưng chưa có kết luận cụ thể gì.
Chiều hôm sau, tôi và nhà tôi đến thăm PGS.PTS. Đặng Công Minh và Chị Hải (Vợ anh Minh) ở đường Nguyễn Thị Diệu, họ là bạn của chúng tôi từ nhỏ, thời học sinh miền Nam. Anh Minh lúc đó là Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tổng hợp kiêm Giám đốc Trung tâm Tin học thuộc Trường Đại học Tổng hợp, nghe nói về ý định xây dựng Khoa Tin học, PGS. Minh rất nhiệt tình ủng hộ, hứa sẵn lòng giúp đỡ đầu tư xây dựng phòng thực hành 50 máy tính trị giá khoảng 200 triệu đồng. Tôi nói: “Cũng có phương án và có người hứa đầu tư, nhưng Viện đang thương lượng.” Anh Minh nhiệt tình nói: “Trung tâm đầu tư và sẽ thu lại sau.”. Nghe anh Minh nhiệt tình vậy, tôi cũng thấy tạm yên tâm chia tay anh chị.
Tuần sau, ngày 29 tháng 9 năm 1990, Kỹ sư Phạm Hữu Trí trở lại với đề án xây dựng khoa và chương trình đào tạo, với đề xuất tỷ lệ 75% - 25%, dành cho khoa và trường. Tôi thấy thích thú với anh bạn trẻ này:
- Sang mai, mời anh đến Viện chúng ta sẽ ký hợp đồng lao động với điều kiện anh không làm Giám đốc kỹ thuật của nhà in Liksin nữa. – Tôi đề nghị với anh Trí.
Dạ vâng! – Anh Trí gật đầu đồng ý và ra về.
Chiều hôm đó trở về nhà, thấy tôi nhà tôi liền hỏi: “Hôm nay có gì mà ông vui thế!”
- Viện đã có 3B không vui sao được. – Tôi ôm nhà tôi và giải thích: “Công cụ nền đào tạo cho SV là biết tiếng Anh, biết máy tính, biết quản trị; hôm nay đã ký hợp đồng với cậu Trí lừ lừ, ít nói, bà nhớ không?”. Vợ tôi đã chuẩn bị bữa cơm gia đình thật thịnh soạn, có canh chua nấu cơm mẻ, có cá rô kho tộ, thịt ba rọi luộc ăn với mắm tép cuốn bánh tráng và cả bia nữa!
Từ đấy, công thức 3B của Viện Đào tạo Mở ra đời, 3B là ba biết. Tôi gọi đây là những ngành học cơ bản, những kiến thức cơ bản không theo nghĩa kinh điển mà theo nghĩa thông thường là công cụ cần thiết giúp cho người lao động tham gia có hiệu quả trong nền kinh tế mở, kinh tế thị trường.
Cơ bản hay nền tảng ở đây có nghĩa là phải có, phải biết. Sau này, khi nói về thành công bước đầu của Viện, PGS.PTS. Vũ Thế Phú thường nhắc lại công thức 3B như là một trong những nguyên nhân giúp SV của Viện ra trường được xã hội chấp nhận. Chương trình đào tạo các khoa của Viện ngoài những tín chỉ bắt buộc của Bộ GD&ĐT còn có 24 tín chỉ Anh ngữ, 12 tín chỉ máy tính, 12 tín chỉ Quản trị học (Kế toán).
Anh Phạm Hữu Trí lúc Viện bổ nhiệm vào cương vị Trưởng khoa mới có văn bằng Kỹ sư, nhưng anh đã được sự hậu thuẫn của một HĐKH hùng hậu, gồm: GS.TS. Đặng Đình Áng, PTS. Nguyễn Văn Tươi, PTS. Sơn, PGS.TS. Bạch Hương Khang – Viện trưởng Viện Công nghệ Thông tin Hà Nội, GS.TS. Nguyễn Hữu Anh…
Nhân một lần có bữa cơm thân mật với GS.VS. Nguyễn Văn Đạo khi ông đồng ý tham gia cố vấn cho HĐKH và Đào tạo của Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh, có mặt cả GS.TS. Đặng Đình Áng, GS Áng nói: “Anh Phường bổ nhiệm cậu Trí làm Trưởng khoa Công nghệ Thông tin là chính xác, cậu ấy rất có năng lực.”
- Quan trọng là làm được việc, còn bằng cấp, học vị là điều kiện cần nhưng chưa đủ, nếu thực sự đủ năng lực cần thiết thì chúng ta phong cho họ học vị. – GS.VS. Nguyễn Văn Đạo tiếp lời.
Năm 1994, anh Phạm Hữu Trí sang Liên bang Nga thực tập và bảo vệ thành công luận văn Ph.D.
- 3. Khoa Đông Nam Á học:
Một ngày đầu năm 1991, PGS.PTS. Nguyễn Quốc Lộc – Trưởng ban Khoa học Xã hội của Viện đưa PGS.PTS. Nguyễn Văn Lịch – Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam – Đông Nam Á thuộc Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh thăm tôi. Các anh đề xuất với Viện xây dựng ngành học Đông Nam Á học vì hầu như là lần đầu tiếp nhận thông tin về Đông Nam Á học nên tôi chưa có ý kiến dứt khoát.
Một lần khác, PGS.PTS. Lộc lại giới thiệu với tôi, GS.TS. Phạm Đức Dương – Viện trưởng Viện Đông Nam Á thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. GS.TS. Phạm Đức Dương rất say mê về văn hóa – kinh tế các nước Đông Nam Á, qua giới thiệu của Giáo sư về khoa học Đông Nam Á, tôi đã bị thuyết phục để đi đến quyết tâm xây dựng ngành đào tạo Đông Nam Á học cho Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi đề nghị PGS. Lộc mời các chuyên gia nghiên cứu xây dựng chương trình đào tạo Đông Nam Á học, PGS. Lộc vui vẻ nhận lời và bắt tay ngày vào việc.
Sau nhiều lần được các nhà khoa học đầu ngành, đặc biệt là GS. Trần Văn Giàu và nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng, PGS. Mạc Đường góp ý điều chỉnh chương trình đào tạo, tôi đề nghị PGS. Lộc bổ sung tăng số tiết học các môn Anh ngữ, Tin học, Quản trị học theo công thức 3B. Viện đã để PGS. Nguyễn Quốc Lộc thay mặt HĐKH ký vào chương trình để báo cáo lên Bộ GD&ĐT.
Ngày 19 tháng 9 năm 1991, Viện ký quyết định thành lập Khoa Đông Nam Á học và bổ nhiệm PGS. Nguyễn Quốc Lộc làm Trưởng khoa. Khoa Đông Nam Á học ra đời là điểm nhấn quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy trong xây dựng và tổ chức đào tạo các ngành khoa học theo nhu cầu xã hội vốn không có tiền lệ từ trước đến thời điểm những năm 90 của thế kỷ XX.
Khoa Đông Nam Á học của Viện nhanh chóng nhận được sự ủng hộ của Viện Đông Nam Á thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Hội đồng Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam – Đông Nam Á, Viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh.
Các thành viên Hội đồng Khoa học và Đào tạo gồm: GS. Trần Văn Giàu, Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng (cố vấn), và các ủy viên: GS. Phạm Đức Dương, GS. Nguyễn Tấn Đắc, PGS. Mạc Đường, PTS. Đào Duy Huân, GS. Lâm Quang Huyên, PGS. TS. Nguyễn Văn Lịch, TS. Nguyễn Xuân Quế, PTS. Phan Lạc Tuyên, PTS. Trương Giang Long, GS. Nguyễn Văn Sơn, TS. Huỳnh Văn Tòng.
Khoa đã có mối quan hệ với các trường ĐH, viện nghiên cứu các nước trong khu vực và Châu Âu. Ngay sau khi được thành lập, tháng 9 năm 1991, GS. Bena Dahm – Viện trưởng Viện Đông Nam Á thuộc Đại học Passau – Cộng hòa Liên bang Đức, GS. Denys Lomband – Giám đốc Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp, GS. MM Gatchalins Đại học Philippines, TS. Dương Bảo Quân – Đại học Bắc Kinh đã đến thăm và đặt mối quan hệ hợp tác với Khoa.
Khoa Đông Nam Á học của Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh đã tiếp nhận hơn 200 SV khóa I vào năm 1991 và tăng dần hàng năm, đến năm 1995 đã có quy mô trên 2.000 SV. Đây là thành công không thể ngờ, tôi rất vui mừng trước sự phát triển của khoa, nhưng trong lòng không yên vì ngành đào tạo Đông Nam Á học chưa được Bộ cấp mã số đào tạo và có nhiều ý kiến phê phán cách làm của Viện.
Báo Nhân dân số ra ngày 20 tháng 8 năm 1995 đã đăng bài “Mã số, ngành nghề đào tạo phải theo kịp yêu cầu cuộc sống”, nhà báo Thao Lâm viết: “Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh là trường ĐH đầu tiên ở nước ta mở ngành đào tạo Đông Nam Á, đáp ứng nhu cầu thực tế, bốn năm qua số SV theo học ngành này tăng lên không ngừng… Đến nay, SV khóa đầu tiên đang hoàn thành chương trình năm cuối và chuẩn bị tốt nghiệp, nhưng điều nan giải đặt ra là ngành Đông Nam Á học mới chỉ có mã số trong cuộc sống mà chưa có mã số trong danh mục ngành nghề được công nhận chính thức của hệ thống GD&ĐT. Do vậy, SV sắp tốt nghiệp đang lo ngại không biết mình có được công nhận tốt nghiệp và được cấp bằng ĐH hay không, mặc dù cuộc sống đang rất cần cán bộ ngành này”.
Mở ra ngành học mới, đón trước yêu cầu của cuộc sống, đáp ứng nhu cầu người học cũng như nhu cầu cán bộ của đất nước, lẽ ra cơ sở đào tạo đó phải được khen thưởng nhưng ngược lại đã bị xét nét vì “tội” đào tạo một trong số những ngành học “lạ tai” ở nước ta như Đông Nam Á học.
Đúng là công tác quản lý, GDĐT một mặt cần phải giữ vững kỷ cương, nhưng mặt khác phải hết sức nhạy bén trước yêu cầu mới của cuộc sống, thấy đâu là nền móng của những nhân tố mới trong quá trình đa dạng hóa các loại hình đào tạo cũng như các ngành nghề đào tạo để tạo điều kiện cho nó phát triển.
Vấn đề đã rõ, Bộ chưa công nhận ngành đào tạo mới mẻ này. Chưa công nhận, chưa cấp mã số, sao “các ông” đã mở ngành đào tạo?Song, mặt khác chúng tôi cũng được gợi ý là có thể đào tạo, cấp trên sẽ xem xét cung cấp cơ sở pháp lý tiếp theo. Thời gian cứ trôi, trên còn nghiên cứu, và chúng tôi kẹt vào thế “trên đe dưới búa” là vậy. May mắn sao, kịp đến khi ở bước đường cùng thì năm 1995, Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội Đông Nam Á và (do đó?) chương trình đào tạo ngành Đông Nam Á học được Bộ DG&ĐT phê duyệt (văn bản số 9183/ĐH). Năm 1996, SV khóa I của ngành Đông Nam Á học được cấp bằng tốt nghiệp.
Sau này, có lần GS.Mạc Đường gặp tôi có hỏi: “Chúng tôi là những người làm công tác nghiên cứu Đông Nam Á, biên soạn nhiều tài liệu nhưng không dám mở ngành đào tạo Đông Nam Á học, tại sao anh là người – ngoại đạo, mà quyết tâm mở Đông Nam Á học và lại rất thành công”.
Tôi mỉm cười nói với Anh Đường: “Nhờ công thức 3B cộng với kiến thức Đông Nam Á”.
Nhưng tôi phải nói thật, nếu không có GS. Trần Văn Giàu, Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng hậu thuẫn, Khoa Đông Nam Á học không thể ra đời vào năm 1991.
4. Khoa Phụ nữ học
Năm 1988, ở Cần Thơ tôi nhận được một cuốn kỷ yếu Đại học Hawai – Hoa Kỳ do GS. Robert gửi tặng. Trong các chương trình đào tạo của Đại học Hawai có chương trình đào tạo ngành Phụ nữ học (Woman Study). Rất thích thú với chương trình này, khi đã ở Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh, tôi đề nghị với PGS. Nguyễn Quốc Lộc và TS. Đinh Quang Kim nghiên cứu. TS. Kim đã rất sốt sắng đề nghị Viện mở ngay ngành Phụ nữ học, tuy nhiên có điều là chương trình đào tạo ngành này của Đại học Hawai nặng về giáo dục luật pháp, bảo vệ quyền lợi phụ nữ, chống bạo lực, đấu tranh bình quyền. HĐKH và Đào tạo của Viện làm việc với Hội Phụ nữ, cô Ngô Thị Huệ, bà Trần Thị Kim Anh cùng lãnh đạo Viện Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ kháng chiến và nhận ngay được sự ủng hộ, hỗ trợ tích cực.
Để hình thành chương trình đào tạo, Viện mời một số chuyên gia như BS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng, TS. Thái Thị Ngọc Dư, ThS. Nguyễn Thị Oanh, TS. Tô Thị Ánh, LS. Trương Thị Hòa và bà Võ Thị A tham gia vào nghiên cứu xây dựng ngành học mới mẻ này. Với mục tiêu hoàn hiện chức năng của Phụ nữ là nhà giáo dục, nhà quản trị, nhà y tế chăm sóc sức khỏe ban đầu. Chương trình đào tạo Phụ nữ học ngoài những môn bắt buộc của Bộ GD&ĐT và những môn công cụ 3B, yêu cầu về chuyên môn của Cử nhân Phụ nữ học là:
- Có năng lực, phương pháp tổ chức công tác xã hội, phát triển cộng đồng.
- Am hiểu về tâm lý học, tâm lý xã hội, tâm lý truyền thống, tâm lý trị liệu.
- Có kiến thức cơ bản về y học và chăm sóc sức khỏe ban đầu, giáo dục học về dinh dưỡng.
- Có phương pháp nghiên cứu những vấn đề xã hội.
- Có kiến thức về Phụ nữ học như hôn nhân gia đình, phụ nữ và phát triển, luật pháp bảo về phụ nữ và trẻ em,…
Ngày 22 tháng 3 năm 1992 tại Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Ngô Thị Huệ, bà Trần Thị Kim Anh và lãnh đạo Viện Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ kháng chiến trao đổi với Lãnh đạo Viện về chương trình đào tạo Phụ nữ học.
Tháng 5 năm 1992, Khoa Phụ nữ học của Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh ra đời, TS. Thái Thị Ngọc Dư được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm khoa. Khoa Phụ nữ học được hậu thuẫn bới Hội đồng Khoa học và Đào tạo khá hùng hậu là những chuyên gia có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm trong tổ chức quản lý như: TS. Tô Thị Ánh, BS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng, ThS. Nguyễn Thị Oanh, LS. Trương Thị Hòa, CNGD. Triệu Thị Chơn, ThS. Nguyễn Xuân Nghĩa, BS. Đỗ Hồng Ngọc, ThS. Trần Hữu Quang,…
Được sự hợp tác của nhiều tổ chức xã hội, các viện nghiên cứu trong và ngoài nước, ngay khóa đầu năm 1992, Khoa Phụ nữ học đã có hơn 300 SV theo học với nhiều đối tượng khác nhau: sư sãi, nữ tu, cán bộ công tác xã hội các cơ quan nhà nước,…Các chương trình nghiên cứu và thực hành về công tác xã hội của khoa được xã hội hưởng ứng tích cực.
Sự ra đời của Khoa Phụ nữ học lúc đầu có nhiều người phản ứng, trong đó có cả một số đồng chí lãnh đạo Bộ. Họ nói: “ Phụ nữ học là cái gì? Chẳng thấy ở đâu trên thế giới này có ngành học như vậy! Để làm gì?. Giáo sư Trần Hồng Quân nhẹ nhàng trả lời: “Nếu không mở ra những ngành có nhu cầu xã hội thì ĐH mở, mở ngành gì đây?”.
Chỉ với ngay tên gọi của nó thôi, Khoa Phụ nữ học đã góp phần tạo diện mạo đẹp trong mắt bạn bè đối với Việt Nam. Khách quốc tế đến thăm Viện, nghe nói Viện có ngành đào tạo này đều muốn ghé thăm và thích thú ngắm nhìn các SV đủ màu sắc đang miệt mài trên giảng đường hay tranh luận cùng nhau ngoài hành lang. Hàng năm, Khoa đều nhận được sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế một cách nhiệt tình. Phải nói rằng, Khoa không chỉ tạo vị thế và làm cho Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh mang sắc thái văn hóa riêng không có một ĐH nào trong nước có được, mà còn góp phần tích cực đào tạo cung cấp cho xã hội những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, đóng góp cho các hoạt động kinh tế xã hội,hòa nhập thắng lợi vào nền kinh tế mở - kinh tế thị trường.
Khi viết những dòng này, tôi nhớ về chị: Tô Thị Ánh, Nguyễn Thị Oanh, Thái Thị Ngọc Dư, BS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng,…những người rất tâm huyết với Phụ nữ học. Các chị Oanh, chị Ánh đã đi xa, nhưng những gì các chị và Khoa Phụ nữ học đã đóng góp cho phát triển một ĐH mở như thế trong những năm 1990-1995 sẽ mãi sống trong lòng SV của các chị và bạn bè.
5. Khoa Công thôn
Tháng 12 năm 1975, lãnh đạo Đại học Cần Thơ biết tôi tốt nghiệp TS. ngành Cơ học nên phân công tôi về tiếp quản Ban Công thôn của Viện Đại học Cần Thơ trước đây. Khái niệm “công thôn” lúc ấy nghe có vẻ lạ tai đối với chúng tôi, nhưng khi tìm hiểu thì thấy đó là một thuật ngữ hợp lý cho một ngành học hợp lý. Ban Công thôn có hai bộ môn là Cơ khí Nông nghiệp và Thủy nông. Có nhiệm vụ giảng dạy một số học phần về Cơ khí Nông nghiệp và hệ thống tưới tiêu cho Khoa Nông nghiệp. Qua thực tế tổ chức sản xuất vùng đồng bằng Sông Cửu Long thì nhu cầu cán bộ có trình độ kỹ sư thực hành phục vụ cho công nghiệp hóa nông thôn theo mô hình đào tạo kỹ sư công thôn là rất cần thiết.
Chúng tôi ngay lập tức phối hợp với Trung tâm Nông cơ thành phố Hồ Chí Minh và một số chuyên gia Khoa Thủy nông Trường Đại học Thủy Lợi, Đại học Xây dựng Hà Nội để hình thành chương trình đào tạo Kỹ sư Công thôn với ba chuyên ngành:
- Quy hoạch xây dựng nông thôn gắn liền với hệ thống canh tác.
- Tổ chức khai thác (sử dụng, sửa chữa và tổ chức mạng lưới) ngành Cơ – Điện, tự động hóa phục vụ sản xuất nông thôn, bao gồm cả bảo quản và chế biến nông sản.
- Quy hoạch, tổ chức khai thác hệ thống thủy nông phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Tuy nhiên, vì tình hình kinh tế xã hội trong những năm đầu sau giải phóng các trường đào tạo cán bộ cho nền kinh tế hoạch định theo mô hình chuyên sâu cho nên chương trình đào tạo Công thôn chưa thực hiện được. Điều này cứ luôn trăn trở trong tôi, cái khó là bất khả kháng đối với một cách làm đã được định hình, thành nếp, dù nhà trường có ủng hộ. Cho nên, khi được quyền tự quyết định, trên cơ sở chương trình đào tạo đã được xây dựng, chúng tôi đã bắt tay vào xây dựng Khoa Công thôn. Viện mời PGS.PTS. Trịnh Bốn làm Chủ nhiệm khoa. Hội đồng Khoa học và Đào tạo của Khoa là những nhà khoa học, nhà giáo tâm huyết, trong đó có GS.VS. Nguyễn Văn Đạo – Nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam, Viện trưởng Viện Cơ học Hà Nội, Viện trưởng Viện Cơ học Thành phố Hồ Chí Minh. Khóa I của ngành Công thôn được khai giảng vào năm 1992.
Chương trình đào tạo kỹ sư công thôn được xã hội quan tâm, số SV ngày càng tăng, đến năm 1995 đã lên đến 3.500 SV. Đội ngũ giảng dạy của khoa lên tới gần 150 người, phần lớn là cán bộ khoa học có trình độ chuyên môn cao, là các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ.
GS.VS. Nguyễn Văn Đạo là nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục tâm huyết, TS. Nguyễn Kim Chi là phu nhân của GS. Đạo đã tham gia giảng dạy toán cho SV Khoa Công thôn (GS. Nguyễn Văn Đạo và tôi quen biết nhau từ 1967, khi đó giáo sư là Trưởng Bộ môn Cơ lý thuyết Trường Đại học Bách Khoa, còn tôi là cán bộ Thư ký Ban Cơ học thuộc Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước. Sau này khi giáo sư thôi giữ chức vụ Phó Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam vào TP. Hồ Chí Minh sinh sống, Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh đã mời giáo sư tham gia Hội đồng Khoa học và Đào tạo). Một hôm, GS. Đạo đến văn phòng tôi, trong tay cầm một tập bài giảng của một thầy dạy toán mà GS. Đạo đã đọc và sửa chữa rất nhiều lỗi. Giáo sư đề nghị tôi nên tổ chức thông qua các đề cương chi tiết và bài giảng các môn trước khi thầy cô in phân phối cho SV. Tôi thầm cám ơn GS.Đạo đã giúp tôi kịp thời chấn chỉnh công tác giảng dạy của trường. GS.VS. Nguyễn Văn Đạo đã đi xa, nhưng hình ảnh của giáo sư và những ý kiến gợi mở của giáo sư cho Hội đồng Khoa học và Đào tạo của Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh và Hội đồng Khoa học và Đào tạo của Trường Đại học Bình Dương là những đóng góp quý báu cho sự phát triển của trường. Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Bình Dương mãi nhớ về Anh với tình cảm trân quý.
Về sau, Khoa mở thêm chuyên ngành Kiến trúc, Điện – Điện tử, Kỹ thuật Xây dựng là những ngành rất cần, nhiều địa phương hưởng ứng đề nghị Khoa mở thêm các lớp vừa làm vừa học cho địa phương mình.