Đăng nhập

Top Panel
Trang nhấtGiáo dụcĐã từng có một đại học mở như vậy

Đã từng có một đại học mở như vậy

Thứ sáu, 18 Tháng 10 2013 07:41
GS.VS. Cao văn Phường  

Kỳ V:Liên kết hợp tác quốc tế trên nguyên tắc “có đi có lại mới toại lòng nhau”

  • - Tiếp khách ở đâu?
  • - Chuyến xuất ngoại đầu tiên
  • - Tiếp nhận chương trình, dự án đầu tư từ Chính phủ Canada
  • - Hợp tác với Hàn Quốc

-Liên kết với Đại học Tự do vương quốc Bỉ 

 

 

TIẾP KHÁCH Ở ĐÂU?

Đại học không thể phát triển nếu không có hợp tác, hợp tác quốc tế là một trong những công tác trọng tâm và thường xuyên của bất cứ trường đại học nào, nó góp phần tích cực cho việc giúp nhà trường không ngừng hoàn thiện chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học. Đối với một trường mới được thành lập, lại theo đuổi một loại hình đào tạo mới mẻ (mở) như Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh thì hợp tác quốc tế càng vô cùng quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, thực tế chỉ ra là có làm được hay không, làm có kết quả hay không tùy thuộc vào quan điểm và cách hành xử của các Hiệu trưởng.

 

Xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp lâu dài, không phụ thuộc vào trường đó lớn hay nhỏ, trường đó mang tên quốc tế hay quốc gia mà phụ thuộc chủ yếu vào tư duy, đường hướng phát triển của nhà trường, mối quan hệ của nhà trường với xã hội, quan điểm, triết lý giáo dục, sứ mệnh của nhà trường trong việc khẳng định mình bằng những hành động cụ thể.

Để công tác hợp tác quốc tế có hiệu quả, ngay từ những ngày đầu, Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh đã đề ra yêu cầu:

- Xây dựng mối quan hệ hợp tác quốc tế trên nguyên tắc “có đi có lại mới toại lòng nhau” tức là hai bên đều có lợi và bình đẳng.

- Hoạt động hợp tác quốc tế phải dựa vào các đơn vị chủ yếu là các khoa đào tạo trong trường, xây dựng mối quan hệ hợp tác trên nhu cầu công việc của nhà trường, các cá nhân không được độc quyền để gây thanh thế, tạo áp lực với Viện.

- Các khoa phải dựa trên định hướng phát triển ngành nghề mũi nhọn của đơn vị mình để lựa chọn sự hợp tác với các cơ sở khoa học tiên tiến.

 

NHỮNG CHƯƠNG TRÌNH HỢP TÁC ĐẦU TIÊN

Ngày 15 tháng 7 năm 1990, tức là chỉ sau một tháng thành lập Viện, anh Kim hỏi tôi: “Có đoàn Tầm nhìn Thế giới, trước đây có quan hệ với Đại học Nông Lâm, nghe tin Viện Đào tạo Mở rộng mới thành lập họ muốn đến thăm có được không?”

- Tốt quá! Anh thông báo với bạn tôi mời họ, nhưng không kịp có thư từ chính thức, nếu họ đồng ý có thể đến trong tuần tới. – Tôi trả lời anh Kim.

- Anh tiếp họ ở đâu? – Anh Kim hỏi và ái ngại nhìn khung cảnh ngổn ngang của trường rồi anh Kim đề nghị: “Hay mượn văn phòng Bộ ở số 3 Công trường Quốc tế? Ở đây gạch ngói đang bừa bãi quá!”

-  Không sao! Cứ tiếp ngay trong phòng làm việc của tôi. – Tôi bảo với anh Kim.

- Thôi thế cũng được, biết đâu thế lại hay. – Anh Kim gật đầu đồng ý.

Cuối tháng đó, đoàn đại biểu Tầm nhìn Thế giới (World Vision International) của Hoa Kỳ do ông Paul Jones đại diện tổ chức này tại Việt Nam và ông Albertw Stetz – Trợ lý điều hành vùng Đông Nam Á, ông W. Naphong Santatiwat (người Thái Lan) – Giám đốc vùng Đông Nam Á đến thăm Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh.Thay mặt lãnh đạo Viện, tôi cám ơn đoàn đã có sự quan tâm đến Viện và trao đổi với bạn một cách ngắn gọn về phương hướng hoạt động của Viện, những dự định xây dựng các chương trình đào tạo mở, đào tạo từ xa đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của nhân dân. Ông Paul Jones hỏi: “Viện cần gì? Các ngài có yêu cầu gì không?”

 

Ông thấy đấy, chúng tôi bắt đầu bằng việc sửa chữa khu nhà khách cũ kỹ thành các phòng học, chỗ làm việc, nên cái gì cũng cần, cái gì cũng thiếu, thiếu đến nỗi không biết mình thiếu…cái gì, nhưng chúng tôi hiểu là trước mắt phải có giáo viên, phải có phòng học, phải có sách cho sinh viên (SV) học và phải có kiến thức tổ chức xây dựng một đại học mở. – Tôi trả lời ông Paul Jones.

 

Nhìn tôi, với bộ côm lê lịch sự nhưng lại vương một vệt vôi nơi ống quần vì vừa từ công trường ngay cạnh đó trở về tiếp bạn, ông Paul Jones nói: “Chúng tôi đã thấy thực tế, các ông đang cố gắng, rất cố gắng. Chúng tôi rất khâm phục cách làm việc của các ông, chúng tôi hiểu các ông đang khó khăn, tổ chức chúng tôi không có tiền, chỉ có khả năng vận động những nhà hảo tâm giúp đỡ”, ông dừng lại nhìn tôi rồi nói tiếp: “giúp đỡ những cơ sở năng động, sáng tạo, dũng cảm vượt qua khó khăn vươn lên, chúng tôi sẽ trở lại”.

 

Tôi đãi khách bằng nước trà và nước dừa, sau khi khách về anh Kim hỏi: “Tại sao người ta hỏi cần gì anh không xin chương trình hỗ trợ và đề nghị họ giúp đỡ. Ở Nông Lâm ngày xưa Hiệu trưởng rất tích cực xin học bổng, xin viện trợ chương trình nghiên cứu, xin cả lò bánh mì nữa, họ đều cho hết”.

 

- Anh Kim à, Hiệu trưởng các anh xin lò bánh mì, xin học bổng… vì trường các anh là trường đã ra trường, có cơ sở vật chất rồi, xin thì họ cho, đó là chuyện của Hiệu trưởng Nông Lâm. Viện mình mới thành lập, nhà còn đang sửa, tôi chưa biết họ là ai, mặc dù tôi tin các anh. Ngửa tay tưởng dễ mà không dễ chút nào đâu anh Kim..” – Tôi giải thích với anh Kim.

- Hiện nay lò bánh mì trị giá khoảng 1.000USD, họ cho Trường Nông Lâm. Ở trên đó, Hiệu trưởng mới bỏ không dùng hay mình xin đưa xuống Viện giao cho Hiệu trưởng cũ của Nông Lâm – Anh Hanh, làm chủ nhiệm chương trình lò bánh mì, cứ để ông Hanh tiếp tục đi…” – Anh Kim hỏi xin ý kiến tôi.

 

- Nếu muốn các anh có thể làm như vậy, các anh hỏi xem bạn đồng ý không? Nếu họ đồng ý thì tôi cũng không phản đối, nhưng nếu với danh nghĩa của Viện đứng ra xin thì tôi không thể…. – Tôi trả lời anh Kim.

Sau đó, anh Kim, anh Hanh có soạn thảo bức thư gửi tổ chức Tầm nhìn Thế giới về vấn đề lò bánh mì, tôi xác nhận các anh Kim, anh Hanh là cán bộ của Viện và nếu tổ chức Tầm nhìn Thế giới đồng ý thì Viện rất cám ơn. Người ta thường nói: “Ở đời không cho không ai cái gì?” – bạn nghĩ sao?

Ba tháng sau, tháng 10 năm 1990, ông Paul Jones lại đưa phái đoàn Tầm nhìn Thế giới của Hoa Kỳ đến thăm Viện. Lần này, chúng tôi tiếp đoàn tại phòng họp của Viện trưởng.

 

Vị khách là những người Mỹ cao to nên vào phòng họp của Viện phải khom người nhưng vẫn bị vướng. Cùng tiếp khách với tôi có TS. Kim, cô Vinh, PGS. Lộc, PGS. Phú. Tôi mở đầu câu chuyện về phòng họp của Viện trưởng: “Tôi rất xin lỗi các bạn vì phòng họp quá thấp, các bạn bước vào cửa phải khom người, nhưng thưa các bạn đây là phòng đẹp nhất của Viện, nó được sửa chữa từ toilet của ký túc xá cũ”. Mọi người ồ lên vui vẻ, thái độ chủ khách trở nên gần gũi hơn, lần này đoàn Tầm nhìn Thế giới chính thức đề nghị Viện nêu ra những vấn đề bức xúc để bạn nghiên cứu.

Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh rất thiếu kinh nghiệm trong tổ chức xây dựng một đại học mở và thiết kế tổ chức triển khai các chương trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Vì vậy, Viện đề nghị tổ chức Tầm nhìn Thế giới giúp Viện xây dựng mối quan hệ với các trường đại học mở Thái Lan hỗ trợ Viện tài liệu giảng dạy tiếng Anh, Kinh tế, Tin học và nếu có thể cử cán bộ đến tham gia giảng dạy tiếng Anh. Đoàn Tầm nhìn Thế giới hứa sẽ nghiên cứu ý kiến của Viện.

 

Tháng 12 năm 1990, một đoàn giáo sư từ Viện Ngôn ngữ mùa hè (Summer Insitute of Linguistics) của Hoa Kỳ do TS. Kenneth J. Gnegerson – Viện trưởng, TS. Eugene E.Fuller – Phó Viện trưởng, ông Francis B.Dawson – Giám đốc vùng Việt Nam đến làm việc với Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh. Viện Ngôn ngữ Mùa hè (SIL) là tổ chức nghiên cứu về ngôn ngữ các dân tộc, TS. Fuller được Viện cử sang hỗ trợ cho khoa ngoại ngữ tổ chức xây dựng và triển khai chương trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ, TS. Fuller cùng phu nhân và con trai làm việc trực tiếp với Khoa Ngoại ngữ.

 

Sau một thời gian làm việc tại Viện, TS. Fuller nói với tôi: “Các anh ở đây có TS. Đinh Quang Kim là chuyên gia tốt về hệ thống tín chỉ, đâu cần chúng tôi giúp”. Về sau, Viện Ngôn ngữ Mùa hè (SIL) và tổ chức Youth Education Services do ông A. Hamilton – Giám đốc cử nhiều giảng viên sang giảng dạy ở khoa Anh ngữ và Trung tâm Anh ngữ của Viện, trong đó có cô giáo Karen, hiện nay là Phó Trưởng phòng Hợp tác Quốc tế của Trường Đại học Bình Dương.

 

CHUYẾN XUẤT NGOẠI ĐẦU TIÊN

Theo yêu cầu của Viện với tổ chức Tầm nhìn Thế giới từ lần tiếp xúc đầu tiên, đầu năm 1991, tổ chức này thiết kế cho Viện một đoàn cán bộ sang thăm và học tập, nghiên cứu các trường đại học ở Thái Lan, đặc biệt là hai đại học mở ở Bangkok. Tiền vé máy bay Viện tự lo, ăn ở đi lại tại Thái Lan do bạn đài thọ, thời gian là ba tuần lễ. Tôi, TS. Kim và PGS.PTS. Nguyễn Văn Hanh đi “kinh lý” lần đầu với danh nghĩa Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh. Để thuận lợi cho đối ngoại thay vì chuyển ngữ tên Viện là “Institute of open learning” chúng tôi viết thành “opening University”.

 

Đến Bangkok – Thái Lan, chúng tôi được đại diện tổ chức Tầm nhìn Thế giới tại Thái Lan tiếp, ông W.Naphong Satatiwat – Giám đốc Vùng Đông Nam Á đưa chúng tôi đến làm việc với các trường.

 

Tại Đại học Mở Ramkhamhaeng, đoàn được Giáo sư Viện trưởng Chousak Sirinil và Hội đồng Khoa học và Đào tạo Viện tiếp và làm việc. Chúng tôi thăm các khoa, phòng Đào tạo, Trung tâm Phát thanh. Nhờ có anh Kim rất thông thạo tiếng Thái đến nỗi người Thái cứ ngỡ anh cũng là người bản địa. Chúng tôi phân công trong đoàn: anh Hanh là thư ký và ghi hình, anh Kim làm phiên dịch. Đại học Mở Ramkhamhaeng thực hiện chế độ đào tạo mở ghi danh (open admitton) có kết hợp đào tạo từ xa qua phát thanh, số học viên của trường này đến 150.000 người. Hiệu trưởng Chosak Sirinil cho biết: đào tạo từ xa của trường chủ yếu là ngành Luật, rất nhiều cựu sinh viên của trường là Nghị sĩ Quốc hội. Trong hai ngày chúng tôi làm việc với Phòng Đào tạo, Trung tâm Khảo thí và các Khoa, chúng tôi nhận thấy: Phòng Đào tạo được tổ chức từ các bộ môn chuyên môn, mỗi môn học có một chuyên gia tư vấn làm việc trên hệ thống máy tính nối mạng, các bộ phận tổng hợp trực tiếp cho Giám đốc phòng điều khiển để lên lịch, xếp lớp, xây dựng kế hoạch thực hiện. Trung tâm Khảo thí của trường được tin học hóa, học viên có thể gọi điện thoại, báo mã số để biết kết quả học tập thông báo qua mạng máy tính. Sinh viên nào cần in phiếu điểm phải nộp 8 – 10 bạt (đơn vị tiền tệ của Thái Lan).

Tiếp đó chúng tôi đến thăm Đại học mở Sukhothai Thammathirat (STOU) cách Bangkok 40km. Giáo sư Viện trưởng – TS. Lam Chaya Ngam và Hội đồng Khoa học và Đào tạo tiếp đoàn. Sau đó, chúng tôi đến thăm phòng Đào tạo, Trung tâm Học liệu, các trường quay sản xuất băng hình, xưởng in ấn. Đại học Mở Ramkhamhaeng chủ yếu “mở” với khái niệm (open Admisson) ghi danh học tự do và kết hợp với phát thanh. Còn Đại học mở STOU thực hiện theo hình thức đào tạo từ xa nhờ kỹ thuật phát thanh và truyền hình là chủ yếu. Tại trường này có ba trường quay ghi hình bài giảng, có xưởng in ấn học liệu, Trung tâm Tin học phục vụ cho việc khảo thí.

 

TS. Ngam – Viện trưởng cho biết, tháng 4 năm 1991, Phó Thủ tướng Việt Nam – Nguyễn Khánh có đến thăm trường. Những ngày tiếp theo ở Bangkok chúng tôi thăm các đại học Assumption, Chulalongcon, Kasesat, Srinakcharinwiroh, Mahydon, sau đó thăm Đại học Khon Kaen, Đại học Chiangmai.

 

Đại học Mở Ramkhamhaeng, STOU và Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh đã ký kết bản ghi nhớ thỏa thuận hợp tác về nguyên tắc:

- Cùng nghiên cứu triển khai các chương trình đào tạo mở.

- Các đại học Thái Lan sẽ hỗ trợ đào tạo cán bộ cho Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh, tổ chức quản lý chương trình đào tạo theo hệ thống tính chỉ, đào tạo từ xa.

- Giao lưu trao đổi cán bộ giảng dạy.

- Trao đổi thông tin.

Ở Thái Lan, chúng tôi cũng có dịp đến thăm các trường đại học truyền thống của bạn, tại Chulalongcon và Đại học Sirkharinvirol chúng tôi thăm Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, còn ở Đại học Khonkaen chủ yếu thăm khoa Công nghệ Sinh học và Đai học Chiangmai thì thăm Thư viện. Chuyến viếng thăm học hỏi các đại học Thái Lan nhờ được chuẩn bị chu đáo về mặt nội dung và lịch làm việc nên kết quả thu được ngoài sự mong đợi của Viện, chẳng những chúng tôi học tập được rất nhiều về kinh nghiệm tổ chức quản lý, định hướng phát triển của các đại học mở và các đại học truyền thống mà còn xác lập được mối quan hệ hợp tác lâu dài với các đại học bạn. Xin nói thêm mô hình đại học Thái Lan được tạo dựng từ mô hình đại học Hoa Kỳ, mô hình đại học đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho nền kinh tế mở - kinh tế thị trường. Về sau, Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh hình thành khoa Đông Nam Á học do PGS. Nguyễn Quốc Lộc chủ trì, khoa Công nghệ Sinh học do PGS. Nguyễn Văn Hanh chủ trì đã tiếp tục đặt mối quan hệ hợp tác với bạn.

 

Trở về Việt Nam, tôi báo cáo kết quả chuyến công tác với Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và đề nghị Bộ cho phép trước mắt Viện thực hiện công tác đào tạo theo mô hình Ramkhamhaeng và thực hiện lấy giáo dục mở để xây dựng các chương trình đào tạo từ xa thông qua tài liệu sách vở và phát thanh. Rất phấn khởi là đề nghị này đã được lãnh đạo Bộ chập thuận.

 

TIẾP NHẬN CHƯƠNG TRÌNH VÀ DỰ ÁN TỪ CHÍNH PHỦ CANADA

Tháng 1 năm 1992, nhân chuyến công tác Hà Nội, tôi ghé thăm Vụ trưởng Vụ Đại học GS.TS. Lâm Quang Thiệp. Thấy tôi đến, Vụ trưởng Lâm Quang Thiệp vui mừng: “Ồ! Anh Phường, anh ra lúcnào? Tôi có tin vui cho anh đây”, không chờ tôi chào đáp lại, Vụ trưởng Thiệp nói tiếp: “Tôi mới nhận được tin là cuối tháng này TS.Jessiman – Giám đốc chương trình hợp tác quốc tế Capillano đến Việt Nam, nếu các anh đồng ý tiếp, tôi giới thiệu để ông ấy đến thăm các anh, còn có nhận được chương trình hợp tác hay không tùy vào tài nghệ của anh!”. “Vâng, quá tốt, xin anh giới thiệu TS. Jessiman đến thăm Viện chúng tôi”, tôi trả lời Vụ trưởng.

 

Đầu tháng 2 năm 1992, theo lời giới thiệu của Vụ trưởng Lâm Quang Thiệp, TS. Jessiman đến thăm Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi tiếp TS. Jessiman tại phòng khách của Viện trưởng – 97 Võ Văn Tần, tôi giới thiệu mô hình tổ chức hoạt động của nhà trường và nhấn mạnh đây là mô hình thí điểm về giáo dục mở và tự hạch toán, khó khăn của Viện là chưa có kinh nghiệm. Hiện nay, Viện đang triển khai công tác đào tạo theo khái niệm mở (open admission) và đào tạo theo phương thức từ xa thông qua công nghệ truyền thông và công nghệ thông tin, Viện mong muốn chuyển đào tạo niên chế sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ.

 

Tối hôm đó, tại buổi tiếp cơm thân mật với TS. Jessiman, cùng tiếp với tôi có TS. Đinh Quang Kim – Trưởng khoa Anh ngữ, Bà Lương Thị Kim Vinh – Trợ lý đối ngoại, PGS. Nguyễn Văn Hanh và TS. Tỉnh – chuyên viên Vụ Đại học. TS. Jessiman rất cởi mở, bữa cơm thật vui vẻ, tôi nhắc lại sự giúp đỡ của các bạn Canada trong phái đoàn quốc tế kiểm soát hiệp định đình chiến năm 1954 với đồng bào ta ở miền Nam, TS. Jessiman lắng nghe rất trân trọng.

 

Sáng ngày hôm sau, hai bên đã thỏa thuận: Phía Canada hỗ trợ cho Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện ba chương trình hợp tác trong giai đoạn I từ tháng 2 năm 1992 đến tháng 2 năm 1994:

- Dự án chuyển đổi chương trình đào tạo niên chế sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ.

-  Dự án xây dựng Khoa Phụ Nữ học (hoàn thiện thiết kế chương trình khoa Phụ Nữ học).

-  Dự án đào tạo từ xa.

Chương trình hợp tác giai đoạn I, phía Canada hỗ trợ Viện 210.000USD

 

Thực hiện kế hoạch hợp tác này, ngày 4 tháng 6 năm 1992, TS. William Gibson – Chuyên gia thiết kế chương trình đào tạo thuộc cơ quan phát triển quốc tế của Đại học Capillano Canada đã đến làm việc với Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian ba tuần. Theo yêu cầu của viện, TS. William Gibson làm việc với tất cả 10 khoa đào tạo của Viện để hoàn thiện chương trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ, với cấu trúc khung chương trình 121 -134 tín chỉ, bao gồm các môn bắt buộc, giáo dục đại cương, các môn chuyên ngành, các môn nhiệm ý (tự chọn) và giáo dục thể chất. Trong khuôn khổ chương trình hợp tác, trường đã cử 4 đoàn cán bộ sang nghiên cứu, học tập tại các trường đại học Canada.

 

Tháng 10 năm 1992, nhận lời mời của Trường Capillano, tôi cùng TS. Đinh Quang Kim và bà Lương Thị Kim Vinh sang thăm và tìm hiểu một số trường đại học ở Canada, tham dự các buổi làm việc của Hội đồng Khoa học và Đào tạo, các phòng ban của các trường. Tiếp sau đó, trường cử TS. Nguyễn Đình Quế - Phó Trưởng khoa Quản trị Kinh doanh, ThS. Khánh – Phó Trưởng khoa Anh ngữ, ThS. Thân – Giảng viên khoa Quản trị Kinh doanh, ThS. Khuê – Giảng viên Sử học qua học tập và làm việc tại trường bạn hai tháng (riêng ThS. Khuê là 4 tháng).

 

Về phía Canada, đầu năm 1993, TS. William Gibson và Phu nhân là luật sư, GS. Peter Holden, TS. Noga Gayle tiếp tục sang kiểm tra và hỗ trợ các khoa triển khai chương trình đào tạo theo hệ thống tín chỉ đã được thực hiện từ năm 1992 và giúp Viện hoàn thiện chương trình đào tạo ngành Luật và Báo chí học.

 

Nhằm chuẩn bị xây dựng mối liên kết, Trường Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức đoàn cùng các doanh nghiệp sang tham quan và học tập tại Thái Lan, Canada, kinh phí do chương trình hợp tác hỗ trợ. Các doanh nghiệp sau khi trở về đã tham gia vào các hoạt động đào tạo, triển khai các dự án do Viện giới thiệu, đã không ngần ngại trích một phần kinh phí hỗ trợ học tập cho sinh viên của Viện.

 

Các chương trình hợp tác với các trường bạn ở Thái Lan và Canada đã giúp cho Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng tiếp cận đến gần cách tổ chức quản lý và triển khai chương trình đào tạo đại học theo lộ trình và chuẩn mực quốc tế (Ý kiến đóng góp quý báu của các chuyên gia Canada, các bạn có thể xem ở phần phụ lục Hồi ký “Đã từng có một đại học mở như vậy”).

 

 

HỢP TÁC VỚI HÀN QUỐC

Tháng 2 năm 1992, TS. Kim Soo Kyu – Hiệu trưởng trường Sau Đại học (Đại học Kyungnam) và GS. Hwang – Trưởng Bộ môn Việt Nam học Trường Đại học Pusan từ Hàn Quốc sang thăm và làm việc với các đại học Việt Nam, trong đó có Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian này, Việt Nam và Hàn Quốc chưa có mối quan hệ bang giao chính thức.

 

Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh có khoa Đông Nam Á học cho nên phía Hàn Quốc rất quan tâm, muốn ký kết hợp tác. TS. Kim – Trưởng khoa Sau Đại học là nghị sĩ Quốc hội Hàn Quốc hứa sẽ báo lại tình hình với GS. Park – Hiệu trưởng.

 

Ngày 20 tháng 9 năm 1992, Đại học Kyungnam có thư mời chính thức Viện trưởng Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh sang thăm trường, cô Lee người Hàn Quốc có mẹ là người Việt Nam làm phiên dịch chính cho đoàn.

 

Chiều ngày 20, chúng tôi đến Seoul gặp và làm việc với các giáo sư: GS. Choi Jae Hyun – Trưởng bộ môn Việt Nam học trường Đại học Hankuk, GS. Kym Kjae – Trưởng khoa Ngoại ngữ Trường Đại học Hankuk, GS. Jae Chang Kim – Trưởng khoa Sau Đại học và Quản trị công Đại học Quốc gia.

 

Ngày 21, chúng tôi đáp tàu hỏa đến Massan, thăm chính thức Đại học Kyungnam, được Hiệu trưởng Park và Hội đồng Khoa học và Đào tạo trường tiếp, có sự tham dự của các phóng viên báo chí, phát thanh truyền hình địa phương. Theo yêu cầu của phía bạn, tôi nói về tình hình đổi mới giáo dục Việt Nam, tổ chức đào tạo của Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh và một số vấn đề khác. Các giáo sư rất quan tâm đến ngành Đông Nam Á học của Viện, còn các nhà báo thì hỏi về tình hình giáo dục, kinh tế, xã hội, đời sống nhân dân Việt Nam… Hai trường ký kết hợp tác trao đổi giáo viên, trao đổi thông tin. Chiều ngày 21 tháng 9 đoàn gặp Hiệu trưởng và sinh viên Trường Sau Đại học, các bạn rất muốn biết tình hình giảng dạy ở Việt Nam. Khi biết Viện có khoa Quản trị Kinh doanh, khoa Đông Nam Á học, khoa Công nghệ Thông tin và biết Viện đã có mối quan hệ với các đại học Thái Lan, đại học Canada, đại học hoa kỳ, phía bạn tỏ ra rất ngạc nhiên.

 

Tối hôm đó, GS. Kim và các giáo sư trong Hội đồng Khoa học và Đào tạo Trường Sau Đại học chiêu đãi đoàn tại nhà riêng của giáo sư, có cả các nghệ sĩ tham dự (phu nhân TS. Kim là nghệ sĩ piano). Sau đó, chúng tôi đi thăm thành phố Massan và nhà máy sản xuất ô tô Huyndai, khu chế xuất.

Hôm sau trở về Seoul, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Hàn Quốc, GS. Choi tiếp đoàn và bày tỏ mong muốn hai nước sớm có bang giao. Sau chuyến thăm hai trường đã trao đổi nhiều đoàn cán bộ qua lại học hỏi lẫn nhau, bạn đã gởi sang Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh hơn 60 SV học tiếng Việt và thực tập tại Khoa Đông Nam Á. Các SV này về sau trở thành giám đốc, lãnh đạo các công ty xí nghiệp tại Việt Nam. Đại học Mở sau đó đã đào tạo nhiều học viên cho Hàn Quốc và Đại học Kyungnam đào tạo cho Đại học Mở một số cán bộ khoa học.

 

Ngày 1 tháng 10 năm 1994, Hội đồng Khoa học và Đào tạo trường Sau Đại học Kyungnam phong tặng tôi danh hiệu Giáo sư danh dự của trường. Buổi lễ phong tặng được tổ chức tại Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh và được Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh đưa tin. Những năm tôi không còn công tác ở Đai học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh, gia đình GS. Kim (Vợ và các con) thỉnh thoảng vẫn sang thăm gia đình tôi ở Quận 9 thành phố Hồ Chí Minh.

k51

Năm 1992, GS.TS. Kim – Hiệu trưởng Trường Sau Đại học thuộc Đại học KyungNam, Hàn Quốc trao bằng danh dự cho TS. Cao Văn Phường – Viện trưởng Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh

 

Năm 2006, tôi cùng nhà tôi và một số cán bộ Trường Đại học Bình Dương sang thăm các đại học Hàn Quốc: Đại học Quốc gia Hanyoung, Đại học Kyungbuk, Đại học Massan. GS. Kim và hội đồng Khoa học khoa Sau Đại học tiếp chúng tôi tại nhà rất thân tình như anh em. Chúng tôi đã rất hào hứng cùng hát lên những bài ca quen thuộc với các bạn giáo sư già Hàn Quốc.

 

CHƯƠNG TRÌNH MBA ĐẦU TIÊN CỦA ĐẠI HỌC MỞ BÁN CÔNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LIÊN KẾT VỚI ĐẠI HỌC TỰ DO VƯƠNG QUỐC BỈ

 

Muốn chương trình MBA thực hiện thành công, chúng ta phải nắm vững quy luật thiên nhiên và ứng dụng vào cuộc sống thực tiễn – tôi đã nói như vậy với GS. Nagels – Đại học Tự do Bỉ

k52

Ngày 8 tháng 2 năm 1995, Nguyên Tổng Bí thư – Cố vấn BCH Trung ương Đảng CSVN Nguyễn Văn Linh phát biểu tại buổi lễ khai giảng lớp MBA Việt – Bỉ khóa I  trường Đại học Mở - Bán  công Thành phố Hồ Chí Minh

 

Khoảng 10 giờ sáng ngày 27 tháng 4 năm 1994, chuông điện thoại “reng”, tôi nhắc máy lên, ở đầu bên kia là giọng phụ nữ rất dễ nghe: “Xin lỗi! Phải văn phòng của GS. Cao Văn Phường? Tôi là Tường Vân gọi từ Sứ quán Bỉ ở Hà Nội”.

- Vâng! Tôi là Phường đây, tôi xin nghe – Tôi trả lời Chị Vân.

- Thưa Giáo sư, hiện tại ở chỗ chúng tôi có GS. Jacques Nagels từ Đại học Tự do Brucxen sang Việt Nam tìm đối tác để xây dựng chương trình đào tạo Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh (MBA), không biết trường của Giáo sư có nhu cầu không? – Chị Tường Vân nói.

- Tốt quá thưa chị, chúng tôi rất sẵn sàng chào đón GS. Jacques Nagels – Tôi trả lời.

-  Vậy chiều mai, khoảng 3 đến 4 giờ, GS. Jacques Nagels đến trường ta được không? – Chị Tường Vân thông báo.

-  Dạ được, chị thông báo giờ, chuyến bay, chúng tôi sẽ cử người ra đón Giáo sư – Tôi nói.

-  GS. Jacques Negls sẽ tự đến, trường không phải đón ở sân bay – Chị Vân nói.

Sau này, tôi mới biết GS. Jacques Negls đã đi một số trường đại học nhưng chưa có được đối tác sẵn sàng ký kết. Có được quan hệ này là nhờ PGS. Nguyễn Quang Toản tình cờ biết được đã giới thiệu Viện Đào tạo Mở rộng Thành phố Hồ Chí Minh cho Văn phòng Đại sứ quán Bỉ thông qua một số người quen.

 

Chiều hôm đó, đúng 5 giờ, GS. Jacques Negls đến Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh, ông đậm người, trầm tính nhưng rất dễ chịu. Tôi giới thiệu về trường và cung cấp những thông tin cần thiết cho GS. Nagels về cơ chế hoạt động của trường là tự hạch toán, không có kinh phí của nhà nước. Vì vậy, chương trình hợp tác của trường với Đại học Tự do Bỉ nếu được cũng phải theo cơ chế này. Giáo sư rất thích thú khi nghe về cơ chế tự hạch toán, ông nói: “Cơ chế tự hạch toán chính là điều chúng tôi đang tìm kiếm ở các trường Việt Nam, như vậy tôi đã gặp được đúng chỗ mình mong muốn”. Sau một hồi trao đổi thêm, chúng tôi quyết định sẽ ký thỏa thuận hợp tác “Chương trình MBA Thạc sĩ Việt – Bỉ” giảng dạy bằng tiếng Pháp và Tiếng Anh.

 

Tối hôm đó, tôi mời cơm GS. Negls trên Tàu Bến Nghé, cùng dự tiệc có PGS. Nguyễn Quang Toản và cô Minh công tác tại Viện quan hệ Pháp – Việt, Đại học Kinh tế Hồ Chí Minh. Cô Minh rất thông thạo tiếng Pháp, vì vậy đã giúp chúng tôi với GS. Negls hiểu nhau thêm rất nhiều qua các câu chuyện tiếu lâm. Tôi hỏi GS. Negls có ăn được các món tôm, cua, lươn không, Giáo sư trả lời món gì ông cũng dùng được. Trong không khí vui vẻ, tôi hỏi: “Ông biết tại sao hôm nay tôi đãi ông các món tôm càng xanh, cua biển và lươn không?” – “Các con này tồn tại trong thiên nhiên và có cách hành xử rất đặc biệt, con tôm muốn tiến lên phía trước phải quay đuôi lại, co mình búng mạnh. Con cua muốn đi về phía trước phải bò ngang để đưa thân mình lên. Con lươn muốn đi về phía trước phải luôn lách. Tôi nghĩ chương trình liên kết Việt – Bỉ của chúng ta chắc phải thực hành tất cả các cách này thì mới thành công được”. GS. Negls có vẻ rất thích thú với câu chuyện tôi kể. Năm 1996, trong lễ trao bằng cho SV khóa I, GS. Negls nhắc lại câu chuyện này trong bài phát biểu của mình trước nhiều quan khách.

 

Thực ra, đó chỉ là câu chuyện vui, chứ chương trình liên kết đào tạo thạc sĩ giữa hai bên rất thuận lợi. Khi Viện báo cáo lên Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ trưởng Trần Hồng Quân đồng ý cho phép triển khai ngay không phải chờ đợi. Trong chương trình này, Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh đảm trách các môn theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và một số môn cơ sở, còn 50% là các môn chuyên ngành thì do giảng viên Đại học Tự do Bỉ đảm trách. Chương trình thực hiện thông qua hai thứ tiếng là Pháp và Anh, còn bằng tốt nghiệp do Hiệu trưởng Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh và Hiệu trưởng Đại học Tự do Bỉ cùng ký, PGS. Nguyễn Quang Toản được cử làm Giám đốc chương trình đào tạo Việt – Bỉ. Hội đồng Khoa học và ban giảng huấn của chương trình hỗ trợ cho PGS. Nguyễn Quang Toản, về phía Việt Nam có: PGS. Vũ Thế Phú, PGS. Phan Dũng, PGS. Đồng Thị Thanh Phương, PGS. Võ Thanh Thu, TS. Lương Hữu Định, TS. Trần Anh Tuấn, PTS. Nguyễn Phú Tựu, PTS. Vũ Công Tuấn, TS.Nguyễn Văn Ngôn, PTS. Cao Xuân Tiến, MBA.Trần Xuân Kiên, MBA. Nguyễn Đình Quế, MBA. Trần Sĩ Hải, PGS. Bùi Ngọc Oánh, PGS. Bùi Tường Trí. Về phía bạn: GS.TS. Jacques Negls, GS.TS. Anne Drumaux, GS.TS. Paska Khrouz, GS.TS. Alin Eraly.

 

Trong lễ khai giảng lớp cao học MBA khóa I chương trình Việt – Bỉ, nhà trường rất vui mừng được đón tiếp nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng đến dự và phát biểu ý kiến. Đại sứ Vương quốc Bỉ, đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo, cùng nhiều lãnh sự quán các nước đến chung vui. Buổi lễ được tổ chức long trọng tại Bảo tàng lịch sử Phụ nữ. Những học viên khóa I, II của Viện tốt nghiệp ra trường hiện đang giữ những trọng trách trong các cơ quan, các công ty xí nghiệp và rất thành đạt. Chương trình đào tạo MBA Việt – Bỉ là một trong những chương trình rất có hiệu quả, góp phần cung cấp nguồn nhân lực cho đất nước hòa nhập vào nền kinh tế mở - kinh tế thị trường.

Sửa lần cuối vào

Bình luận

Để lại một bình luận

Tìm kiếm

Điện thoại liên hệ: 024 62946516