ThS. Trương Vương Khánh
Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng và Nghiệp vụ Ngoại ngữ
Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh
Email: t.vkhanh@hcmca.edu.vn
Tóm tắt
Bài viết phân tích yêu cầu nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh đô thị hóa nhanh, chuyển đổi số và cạnh tranh tri thức. Thành tựu xây dựng Đảng thời gian qua cho thấy sự chuyển biến từ chỉnh đốn tổ chức sang xây dựng văn hóa quyền lực liêm chính và chính quyền kiến tạo phát triển. Tuy nhiên, Thành phố đang đối diện thách thức về quản trị siêu đô thị, khoảng cách năng lực số, tư duy điều hành cũ và niềm tin xã hội. Do đó cần tập trung xây dựng đạo đức công vụ, kiểm soát quyền lực, nâng năng lực lãnh đạo chuyển đổi số, phát huy dân chủ và kiến tạo đội ngũ cán bộ đô thị thông minh.
Từ khóa: Xây dựng Đảng, hệ thống chính trị, năng lực cầm quyền, phát huy dân chủ, Thành phố Hồ Chí Minh.
Abstract
Analysis of the requirements for enhancing the governing capacity of the Ho Chi Minh City Party Committee in the context of rapid urbanization, digital transformation, and knowledge-based competition. Recent achievements in Party building demonstrate a shift from organizational rectification to cultivating a culture of integrity in political power and developing a developmental, service-oriented government. However, the city is currently facing challenges related to mega-urban governance, digital capability gaps, outdated administrative mindsets, and public trust. Therefore, it is necessary to focus on building public service ethics, strengthening power control mechanisms, improving leadership capacity for digital transformation, promoting democracy, and fostering a contingent of “smart urban” cadres.
Keywords: Party building, political system, governing capacity, promoting democracy, Ho Chi Minh City.
1. Đặt vấn đề
Thành phố Hồ Chí Minh đang đứng trước bước ngoặt của một hình thái phát triển mới, nơi các động lực tăng trưởng truyền thống dựa vào lao động rẻ, mở rộng không gian đô thị và đầu tư công quy mô lớn đang dần đạt ngưỡng giới hạn. Trong bối cảnh kinh tế tri thức, chuyển đổi số (CĐS) và liên kết vùng trở thành nhân tố quyết định năng lực cạnh tranh, vấn đề cốt lõi không còn chỉ là tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà là khả năng kiến tạo phát triển mang tính chiến lược của bộ máy lãnh đạo và quản trị. Điều đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng bộ Thành phố như một điều kiện để đảm bảo sự dẫn dắt ổn định, hiệu quả và có tầm nhìn.
Từ góc độ lý luận, năng lực cầm quyền của Đảng được xác định bằng khả năng định hướng mục tiêu phát triển, tổ chức thực thi và xây dựng tính đồng thuận xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng” [10, tr. 672]. Điều này cho thấy bản chất của cầm quyền là phục vụ, là kiến tạo, không ngừng nâng cao uy tín chính trị và năng lực hành động thực tiễn. Văn kiện Đại hội XIII xác định nhiệm vụ xuyên suốt: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện” [8]. Trong năm 2025 Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt những kết quả kinh tế nổi bật, với GRDP ước đạt khoảng 3,03 triệu tỷ đồng, chiếm gần 23,5% GDP cả nước, GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 220 triệu đồng, cao hơn đáng kể so với mức trung bình quốc gia. Thu ngân sách dự kiến đạt 737 nghìn tỷ đồng, tương ứng hơn 1/3 tổng thu ngân sách quốc gia [7]. Việc thực hiện mô hình chính quyền đô thị theo Nghị quyết 131/2020/QH14 [13] và cơ chế đặc thù theo Nghị quyết 98/2023/QH15 [14] đã tạo nền tảng thể chế quan trọng. Tuy nhiên, yêu cầu mới đang nổi lên: năng lực hoạch định chính sách dài hạn còn hạn chế; cơ chế phối hợp vùng chưa hiệu quả; một bộ phận cán bộ còn tâm lý né tránh trách nhiệm. Vì vậy, để nâng cao năng lực cầm quyền phù hợp tầm vóc của một đô thị hướng đến vị thế trung tâm quốc tế cần tập trung: phát triển đội ngũ cán bộ chiến lược có tư duy hệ thống và năng lực thiết kế chính sách; thúc đẩy phân quyền đi đôi với kiểm soát quyền lực thông qua CĐS; xây dựng văn hóa chính trị liêm chính - trách nhiệm - phụng sự; mở rộng không gian đối thoại và giám sát xã hội. Xây dựng Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới vì thế không chỉ là nhiệm vụ tổ chức, mà là yêu cầu mang tính kiến tạo mô hình lãnh đạo đô thị hiện đại.
2. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về Đảng cầm quyền
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng sản là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đại diện cho lợi ích căn bản, lâu dài của dân tộc và của tiến bộ xã hội. V.I.Lênin chỉ rõ rằng sự giải phóng của giai cấp công nhân không thể trông chờ từ những lực lượng siêu hình hay từ bất kỳ tầng lớp thống trị nào, mà chỉ có thể đạt được thông qua hành động tự giác và có tổ chức của chính họ: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của chính giai cấp công nhân” [18, tr. 217-218]. Từ đó, hình thành cơ sở lý luận khẳng định tính chính danh của quyền lực Đảng chỉ có thể được bảo đảm khi Đảng đại diện cho lợi ích phổ quát chứ không phải lợi ích cục bộ, bộ phận. C.Mác đồng thời chỉ ra rằng quyền lực giai cấp có khả năng chi phối cả lĩnh vực vật chất lẫn tinh thần: “Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần, thành thử nói chung tư tưởng của những người không có tư liệu sản xuất tinh thần cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối”. Tuy nhiên, trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tư tưởng thống trị phải là tư tưởng giải phóng, tiến bộ và nhân văn nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện con người.
V.I.Lênin đã phát triển và hiện thực hóa luận điểm của C.Mác trong bối cảnh Đảng trở thành Đảng cầm quyền sau Cách mạng Tháng Mười. Ông nhấn mạnh vai trò quyết định của lý luận khoa học trong hành động cách mạng: “Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng” [18, tr. 217-218]. Bởi vậy, Đảng không chỉ là lực lượng lãnh đạo đấu tranh mà còn là chủ thể tổ chức và kiến tạo trật tự xã hội mới. V.I.Lênin khẳng định: “Đảng là trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại” [17, tr. 290] nhấn mạnh rằng quyền lực chính trị chỉ có ý nghĩa khi nó gắn liền với phẩm tính đạo đức và năng lực phụng sự nhân dân. Theo tư tưởng Mác-Lênin, vai trò cầm quyền của Đảng không thuần túy là quyền lực mệnh lệnh - hành chính mà là quyền lực trí tuệ, năng lực dự báo và khả năng định hướng chiến lược phát triển xã hội. Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân như một nguyên tắc sinh mệnh. Lênin khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và sẽ không dẫn được nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà nước, nếu không thực hiện được đầy đủ chế độ dân chủ” [16, tr. 66]. Do đó, bản chất cầm quyền theo quan điểm Mác-Lênin là cầm quyền bằng trí tuệ khoa học, đạo đức cách mạng và khả năng tổ chức đời sống xã hội theo hướng nhân văn, tiến bộ.
Từ những luận điểm trên cho thấy, năng lực cầm quyền của Đảng biểu hiện không chỉ ở việc hoạch định đường lối, thiết kế thể chế và tổ chức bộ máy mà còn ở khả năng sáng tạo, dự báo, thích ứng với sự vận động của lịch sử, đồng thời kiến tạo được đồng thuận chính trị - xã hội. Đây chính là cơ sở lý luận cốt lõi cho việc xem xét và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng trong bối cảnh Thành phố Hồ Chí Minh đang bước vào giai đoạn phát triển dựa trên tri thức, công nghệ số và hội nhập sâu rộng vào kinh tế toàn cầu.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
Trong toàn bộ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng giữ vị trí vừa là điều kiện, vừa là nhân tố quyết định để Đảng thực hiện sứ mệnh lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định, Đảng chỉ có thể giữ vững vai trò cầm quyền khi giữ được bản chất cách mạng, gắn bó mật thiết với nhân dân và luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Người nhấn mạnh, Đảng phải “Không che giấu những khuyết điểm của mình...; Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngoài” [11, tr. 292]. Tự chỉnh đốn vì thế trở thành quy luật phát triển nội sinh của Đảng, là điều kiện sống còn để ngăn chặn suy thoái, giữ vững lòng tin của nhân dân. Hồ Chí Minh tiếp cận vấn đề xây dựng Đảng từ nền tảng đạo đức và văn hóa chính trị. Người khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Ở đây, đạo đức không chỉ là chuẩn mực hành vi mà là bản chất chính trị của một Đảng vì dân, tồn tại vì lợi ích tối cao của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân, Đảng sẽ tự đánh mất mình: “Nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” [12, tr.50], Đảng sẽ suy yếu và mất lòng dân. Bởi vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi đảng viên phải “hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa” [11, tr. 278], coi đạo đức không phải là lời nói mà là thực hành trong đời sống hằng ngày. Một nội dung xuyên suốt trong tư tưởng Người là đề cao vai trò của cán bộ. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng đội ngũ cán bộ quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng, quyết định sự vận hành và hiệu quả của bộ máy. Người căn dặn cán bộ phải rèn luyện để thật sự trong sạch, không vụ lợi, luôn đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng. Chủ nghĩa cá nhân, theo Người, là nguồn gốc của suy thoái và tha hóa: nó “Là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu”. Vì vậy, chống chủ nghĩa cá nhân và thực hành tự phê bình - phê bình phải diễn ra thường xuyên, kiên quyết, nghiêm túc, coi đó là “vũ khí sắc bén nhất để sửa chữa khuyết điểm và phát triển ưu điểm” [9, tr. 402]. Đồng thời, Hồ Chí Minh khẳng định mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân là mối quan hệ máu thịt, là nền tảng chính trị - xã hội của năng lực cầm quyền. Người cảnh báo: “Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại” [11, tr. 290]. Do đó, đạo đức của Đảng phải được thể hiện trong việc phục vụ nhân dân, dựa vào nhân dân và tôn trọng nhân dân. Hạnh phúc của nhân dân là thước đo đạo đức của Đảng: “Hễ còn có một người Việt Nam bị bóc lột, bị nghèo nàn thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm vụ” [10, tr. 668].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng không chỉ là hệ giá trị đạo đức mà là hệ phương pháp luận về bảo đảm tính chính đáng và bền vững của quyền lực Đảng cầm quyền. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, là điều kiện để Đảng vừa giữ vững vai trò lãnh đạo, vừa không ngừng tự đổi mới, thích ứng với sự vận động của thời đại. Điều này có ý nghĩa định hướng sâu sắc đối với việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt tại Thành phố Hồ Chí Minh trong tiến trình phát triển dựa trên kinh tế tri thức và đổi mới sáng tạo.
2.3. Phương pháp luận
Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng để xem sự phát triển của Đảng và hệ thống chính trị như một quá trình vận động liên tục trong đó các yếu tố tư tưởng, tổ chức và phương thức lãnh đạo luôn thay đổi nhằm phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Đảng được nhận thức như một chỉnh thể thống nhất có khả năng tự điều chỉnh, tự hoàn thiện và tự đổi mới để duy trì vai trò lãnh đạo.
Phương pháp luận duy vật lịch sử được sử dụng nhằm lý giải năng lực cầm quyền trong mối quan hệ với điều kiện kinh tế, văn hóa và xã hội cụ thể của Thành phố Hồ Chí Minh. Đô thị hóa nhanh, hội nhập quốc tế sâu rộng và CĐS tạo ra môi trường chính trị - xã hội mới, đòi hỏi phương thức lãnh đạo, mô hình quản trị và quan hệ giữa Đảng với nhân dân phải được điều chỉnh phù hợp.
Tiếp cận chính trị xã hội cho phép xem Đảng như chủ thể kiến tạo trật tự và định hướng các giá trị trong đời sống xã hội. Năng lực cầm quyền được hiểu qua khả năng tổ chức sự đồng thuận xã hội, phát huy vai trò chủ thể của nhân dân và bảo đảm tính chính danh của quyền lực chính trị.
3. Thành tựu xây dựng Đảng và hệ thống chính trị tại Thành phố Hồ Chí Minh thời gian qua
3.1. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và đạo đức
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI khẳng định nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng là củng cố nền tảng chính trị, tăng cường giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong giai đoạn này, Thành phố tập trung triển khai Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, coi đây là cơ chế tự điều chỉnh nội sinh giúp tổ chức Đảng duy trì tính trong sạch của hệ thống. Công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống được triển khai đồng bộ, gắn chặt với thực tiễn sinh hoạt đảng và công vụ. Việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW và Quy định số 1374-QĐ/TU đã nâng cao tính thống nhất trong nhận thức, hành động, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố [4].
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ nhất phát triển nội dung xây dựng Đảng lên mức chỉnh thể văn hóa chính trị mà trọng tâm là xây dựng “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh” [6]. Đây không chỉ là hoạt động mang tính biểu tượng, mà là quá trình định hình chuẩn mực giá trị quyền lực công: liêm chính, nhân ái, vị công, trọng dân, gần dân và phụng sự Nhân dân. Việc xây dựng văn hóa, chính trị không chỉ điều chỉnh ý thức đạo đức của cá nhân cán bộ mà còn hướng đến chuẩn hóa hệ giá trị của toàn bộ hệ thống chính trị.
Đặc biệt, 100% người đứng đầu cấp ủy, chính quyền thực hiện nêu gương theo Quy định số 08-QĐ/TW [6]. Đây là sự chuyển đổi căn bản trong phương thức lãnh đạo: từ lãnh đạo bằng quyền lực hành chính sang lãnh đạo bằng uy tín chính trị và đạo đức công vụ. Nếu Đại hội XI xác lập yêu cầu chống suy thoái thì Đại hội I nâng yêu cầu đó lên xây dựng mẫu hình nhân cách chính trị Hồ Chí Minh trong thực tiễn công vụ Thành phố. Qua đó có thể thấy, xây dựng Đảng không còn chỉ là củng cố tổ chức mà đã chuyển hóa thành kiến tạo nền văn hóa quyền lực, nơi đạo đức trở thành tiêu chuẩn đánh giá hiệu lực lãnh đạo và tính chính đáng của hệ thống chính trị trong mắt Nhân dân.
3.2. Chỉnh đốn tổ chức và hoàn thiện mô hình chính quyền đô thị
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, nhiệm vụ chỉnh đốn tổ chức và đổi mới mô hình vận hành bộ máy được xác định là một trong những khâu đột phá có ý nghĩa quyết định năng lực thực thi quyền lực công của hệ thống chính trị. Thành phố triển khai thực hiện tinh gọn tổ chức theo tinh thần của Nghị quyết số 39-NQ/TW, qua đó tiến hành giảm số lượng đơn vị sự nghiệp công lập và tinh giản 4.132 biên chế, đồng thời hoàn thành việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã từ 322 xuống 312 đơn vị, tương đương mức điều chỉnh 3,11% [2]. Việc sắp xếp không nhằm mục tiêu hình thức về số lượng mà hướng đến tối ưu hóa cơ chế vận hành, giảm trùng lặp chức năng, nâng cao hiệu lực điều hành và trách nhiệm công vụ ở mỗi vị trí, mỗi cấp. Cùng với đó, Thành phố xây dựng và hoàn thiện Kiến trúc Chính quyền điện tử, tạo nền tảng thúc đẩy chuyển đổi phương thức quản trị hành chính từ thủ công sang dựa trên kết nối và dữ liệu. Thành phố còn trở thành địa phương đầu tiên triển khai hạ tầng mạng 5G, mở ra tầm nhìn mới về quản trị đô thị thông minh.
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ nhất kế thừa những kết quả trên nhưng đồng thời đưa tiến trình chỉnh đốn tổ chức vào một bình diện cao hơn, đó là cải cách cấu trúc quyền lực đô thị. Việc hình thành mô hình chính quyền đô thị 02 cấp được xác định không chỉ là thay đổi quy mô hành chính mà là thay đổi chất của phương thức quản trị [6]. Theo đó, phân quyền và phân cấp được mở rộng, thẩm quyền của cấp cơ sở được xác định rõ ràng, thúc đẩy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và năng lực phản ứng nhanh trong quản lý đời sống đô thị. Nghị quyết số 98/2023/QH15 cho phép Thành phố phát huy quyền tự quyết trong quy hoạch, phân bổ nguồn lực, thu hút đầu tư và tổ chức hoạt động kinh tế - xã hội, đưa mô hình đô thị từ chỗ phụ thuộc vào quản lý trung ương sang vị thế chủ thể kiến tạo phát triển. Quản trị đô thị trong bối cảnh này không còn hiểu như sự điều hành kỹ thuật mà là nghệ thuật phối hợp lợi ích, năng lực tổ chức không gian phát triển và điều tiết quan hệ xã hội trong môi trường đô thị quy mô lớn.
3.3. Đổi mới công tác cán bộ
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, công tác cán bộ được xem là nhân tố quyết định hiệu lực thực thi chiến lược phát triển đô thị. Thành phố tập trung xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ thông qua các chương trình đào tạo có hệ thống, hướng tới chuẩn hóa về trình độ, kỹ năng quản lý và thái độ phục vụ Nhân dân. Tuy nhiên, cách tiếp cận của Đại hội XI vẫn mang trọng tâm “điều chỉnh và hoàn thiện” trên nền tảng hiện có, chú trọng khắc phục những biểu hiện hạn chế trong tuyển dụng và bố trí cán bộ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương và thay thế những trường hợp uy tín suy giảm hoặc năng lực không đáp ứng yêu cầu. Việc đổi mới tư duy đánh giá cán bộ được đặt ra, song việc thực thi vẫn chưa thật đồng bộ giữa các cấp, dẫn đến kết quả cải cách chưa đạt độ thấm sâu vào cơ chế vận hành quyền lực công [6].
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ nhất đánh dấu một chuyển hóa có tính bản chất trong công tác cán bộ: từ quản lý nhân sự hành chính sang phát triển năng lực lãnh đạo công. Ở đây, Thành phố không chỉ tìm kiếm cán bộ “đúng vị trí”, mà hướng tới xây dựng đội ngũ cán bộ “tạo ra thay đổi”. Thực hiện Kết luận số 14-KL/TW, Thành phố khẳng định chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám hành động vì lợi ích chung, xem tinh thần tiên phong cải cách là tiêu chí cốt lõi của nhân cách chính trị. Quyền lực công vì thế được gắn chặt với trách nhiệm thực thi và hiệu quả tạo ra cho xã hội chứ không chỉ dừng ở tiêu chuẩn hồ sơ hay thâm niên công tác [6]. Đây là bước chuyển trọng tâm từ đánh giá hình thức sang đánh giá theo kết quả, tác động, và năng lực giải quyết vấn đề trong thực tiễn. Cùng với đó, Thành phố chú trọng phát hiện và bồi dưỡng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ chiến lược, xuất thân từ công nhân, coi tính đa dạng nguồn nhân lực lãnh đạo là biểu hiện của tính đại diện xã hội của quyền lực chính trị. Công tác kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ được hoàn thiện theo hướng liên thông, minh bạch, phòng ngừa tham vọng quyền lực và lợi ích nhóm. Điều này không chỉ ngăn chặn nguy cơ tha hóa quyền lực, mà còn góp phần bảo đảm tính chính danh lãnh đạo trước
Nhân dân.
Nếu Đại hội XI đặt trọng tâm vào điều chỉnh đội ngũ cho phù hợp với yêu cầu phát triển thì Đại hội I chuyển nhiệm vụ ấy thành kiến tạo năng lực lãnh đạo thích ứng với thời đại biến đổi nhanh. Thành tựu của quá trình này không chỉ ở chất lượng nhân sự mà ở việc hình thành một mô hình nhân học chính trị mới cho Thành phố Hồ Chí Minh: cán bộ không chỉ là người thực thi công vụ mà là chủ thể mang năng lực dẫn dắt thay đổi, sáng tạo phương án phát triển và bảo đảm phúc lợi chung.
3.4. Tăng cường kiểm tra, giám sát và phòng chống tham nhũng
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng được triển khai như một nhiệm vụ có ý nghĩa then chốt nhằm giữ vững sự trong sạch của tổ chức và củng cố uy tín của Đảng bộ trong đời sống chính trị - xã hội của Thành phố. Thành phố đã tiến hành kiểm tra, kết luận và kỷ luật 328 đảng viên và 378 công chức, viên chức vi phạm [5], đồng thời thực hiện kiểm tra, giám sát đối với 100% tổ chức đảng và đảng viên theo chương trình và kế hoạch [3]. Điều này phản ánh không chỉ sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng, mà quan trọng hơn là quá trình tự thanh lọc nội bộ, nhấn mạnh tính tự chịu trách nhiệm của tổ chức chính trị đối với chính mình. Công tác kiểm tra trong giai đoạn này có mục đích chủ yếu là giữ kỷ cương và phòng ngừa suy thoái, tạo môi trường tổ chức ổn định, kỷ luật, tránh đứt gãy niềm tin xã hội.
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ nhất nâng nhiệm vụ này lên bình diện cao hơn, không dừng lại ở xử lý sai phạm mà coi kiểm tra và phòng chống tham nhũng như một nguyên lý tổ chức của quyền lực công. Công tác đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và tiêu cực được triển khai với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, kịp thời phát hiện và xử lý nhiều vụ việc phức tạp, tạo hiệu ứng lan tỏa trong toàn bộ hệ thống chính trị và dư luận xã hội. Ở đây, phòng chống tham nhũng không chỉ là vấn đề đạo đức cá nhân mà được nhận thức như điều kiện tồn tại của tính chính danh quyền lực: quyền lực chỉ có thể được Nhân dân chấp nhận và trao gửi niềm tin khi nó chứng minh được sự trong sạch và minh bạch của chính mình [6].
Vận hành thực tiễn cho thấy, từ Đại hội XI đến Đại hội I, trọng tâm tư duy kiểm tra chuyển từ kiểm soát sai phạm sang quản trị rủi ro quyền lực, từ xử lý hậu quả sang ngăn ngừa cơ chế sinh tham nhũng, đặc biệt trong các lĩnh vực liên quan đến đất đai, đầu tư công, quản lý tài sản công và cải cách thủ tục hành chính. Đồng thời, việc tăng cường kiểm tra người đứng đầu, các vị trí trọng yếu và những địa bàn, lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực giúp đưa hoạt động giám sát từ mức chuyên môn lên mức giám sát quyền lực thực chất. Nếu trong Văn kiện Đại hội XI, công tác kiểm tra mang sắc thái củng cố kỷ luật tổ chức thì trong Văn kiện Đại hội I nó được xác lập như một cấu phần cấu trúc của văn hóa quyền lực trong sạch. Thành tựu lớn nhất của tiến trình này nằm ở chỗ: công tác kiểm tra, giám sát và phòng, chống tham nhũng đã tái thiết lập mối quan hệ đạo đức giữa Đảng và Nhân dân, nơi sự tin cậy không đến từ tuyên truyền, mà đến từ hành vi công quyền minh bạch, trách nhiệm và công tâm. Đây là cơ sở căn cốt để củng cố sự bền vững của niềm tin chính trị và tạo nền tảng vững chắc cho phát triển Thành phố trong giai đoạn tiếp theo.
3.5. Củng cố vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội được xác định chủ yếu trên phương diện vận động quần chúng, tạo sự đồng thuận xã hội và kịp thời giải quyết các nhu cầu chính đáng của người dân. Công tác dân vận trong giai đoạn này tạo nên những chuyển biến rõ rệt trong việc lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của Nhân dân, góp phần củng cố niềm tin vào Đảng và hạn chế tình trạng mâu thuẫn xã hội phát sinh từ cơ sở [6]. Tuy vậy, sự tham gia của Mặt trận vào giám sát và phản biện việc rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ mới được nhấn mạnh như một yêu cầu chứ chưa thật sự biểu hiện một cách sâu rộng trong thiết chế vận hành quyền lực.
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ nhất đã nâng vị thế của Mặt trận từ chủ thể vận động quần chúng lên vai trò thiết chế trung gian có chức năng điều hòa quan hệ chính trị giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội được tổ chức lại theo định hướng hoạt động bám sát địa bàn cơ sở, tăng cường khả năng nắm bắt tình hình xã hội và tham gia phản biện chính sách. Việc tiếp nhận và xử lý 8.660 ý kiến phản ánh, đạt tỷ lệ trên 98% trong thời gian ngắn cho thấy quá trình lắng nghe và phản hồi ý kiến Nhân dân đã trở thành thực hành quyền lực thường trực và có hiệu quả thực tế [6]. Đây là minh chứng cho sự đổi mới trong tư duy quản trị: Nhân dân không chỉ là đối tượng thụ hưởng chính sách mà trở thành chủ thể tham gia định hình và giám sát chính sách.
Sự chuyển dịch từ Đại hội XI sang Đại hội I thể hiện bước phát triển từ mô hình dân vận truyền thống sang mô hình tham gia chính trị xã hội, trong đó tiếng nói của Nhân dân có trọng lượng quyết định trong ổn định xã hội và định hướng phát triển đô thị. Nếu Đại hội XI tạo nền tảng để xây dựng sự gần gũi và tin tưởng giữa Đảng với Nhân dân thì Đại hội I khẳng định niềm tin ấy bằng cơ chế giám sát và phản biện có hiệu lực, bảo đảm mỗi quyết sách đều gắn với lợi ích thiết thực của cộng đồng. Thành tựu cốt lõi chính là khôi phục và củng cố mối quan hệ quyền lực mang tính nhân văn: quyền lực chính trị không chỉ để quản lý xã hội mà để phục vụ con người, và Nhân dân luôn ở vị trí trung tâm của hệ thống chính trị Thành phố.
4. Những vấn đề mới đặt ra trong giai đoạn phát triển hiện nay
4.1. Áp lực điều hành siêu đô thị
Thành phố Hồ Chí Minh đang bước vào ngưỡng phát triển của một siêu đô thị với tốc độ tăng dân số nhanh, trung bình mỗi năm tăng thêm hàng trăm nghìn cư dân và chỉ trong vòng 5 năm đã tăng hơn một triệu người [4]. Điều này đặt ra sức ép lớn đối với hệ thống hạ tầng đô thị, từ giao thông, nước sạch, xử lý rác thải, nhà ở cho đến trường học và bệnh viện [6]. Sự gia tăng dân số cơ học và sự dịch chuyển lao động từ các khu vực khác đến Thành phố khiến quy hoạch không gian và quản trị đô thị thường xuyên trong trạng thái bị động. Cùng lúc đó, tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt là ngập nước và xâm nhập mặn đang thách thức năng lực quản trị môi trường và bền vững sinh thái đô thị. Thành phố phải đối diện với một thực tế rằng mô hình quản lý đô thị truyền thống không còn phù hợp với quy mô dân số và tốc độ biến động xã hội [6]. Yêu cầu mới đặt ra là xây dựng năng lực quản trị đa tầng, thích ứng động, có khả năng phản hồi chính sách nhanh, đồng thời kết nối quy hoạch hạ tầng kỹ thuật với hạ tầng xã hội theo tư duy tích hợp. Điều hành siêu đô thị vì vậy cần được nhìn nhận như nghệ thuật cân bằng giữa phát triển và gìn giữ, giữa tốc độ và bền vững, giữa tăng trưởng vật chất và chất lượng sống của cộng đồng cư dân.
4.2. Chuyển đổi số và khoảng cách năng lực cán bộ
Chuyển đổi số không chỉ là việc áp dụng công nghệ mà là sự thay đổi toàn diện trong phương thức vận hành hệ thống chính trị và quản trị xã hội. Tuy nhiên, theo nhận định qua 2 kì Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy không phải toàn bộ hệ thống chính trị của Thành phố hiện nay đã sẵn sàng cho mô hình quản trị dựa trên dữ liệu lớn, kết nối thời gian thực và cơ chế minh bạch - giải trình số. Năng lực sử dụng công nghệ, tư duy phân tích dữ liệu và khả năng xử lý thông tin chiến lược của một bộ phận cán bộ còn hạn chế. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tuy đã có tiến bộ nhưng chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng chính quyền số và xã hội số. Vấn đề đặt ra không chỉ là nâng cấp kỹ năng công nghệ mà còn là chuyển đổi tư duy từ quản lý theo kinh nghiệm sang quản trị theo bằng chứng, từ cơ chế mệnh lệnh sang cơ chế vận hành dựa trên dữ liệu và kết quả thực tiễn. Do đó, CĐS phải được coi là một quá trình cải cách thể chế sâu rộng, chứ không chỉ là hiện đại hóa công cụ làm việc [6].
4.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu bứt phá và tư duy quản lý cũ
Thành phố Hồ Chí Minh được xem là nơi hội tụ năng lực sáng tạo, nguồn lực tri thức và động lực kinh tế lớn nhất cả nước. Song, Văn kiện Đại hội chỉ rõ rằng mô hình lãnh đạo, điều hành trong nhiều lĩnh vực vẫn chưa phát huy hết tiềm năng và lợi thế của Thành phố. Tình trạng tư duy quản lý theo lối hành chính, chú trọng quy trình hơn kết quả, khiến nhiều cơ hội phát triển bị chậm nhịp hoặc bỏ lỡ [6]. Cải cách thủ tục hành chính chưa tạo ra sự chuyển động đồng bộ giữa các cấp chính quyền, trong khi một bộ phận cán bộ còn biểu hiện e dè, ngại trách nhiệm, thiếu tinh thần đột phá và đổi mới. Khuynh hướng “an toàn chính trị” đôi khi trở thành điểm nghẽn kìm hãm sức bật sáng tạo của đội ngũ lãnh đạo và cán bộ [6]. Vì vậy, yêu cầu bứt phá hiện nay không chỉ nằm ở việc đề ra chính sách mới mà nằm ở việc chuyển đổi mô hình tư duy từ “quản lý hành chính” sang “kiến tạo phát triển”. Kiến tạo phát triển đòi hỏi người lãnh đạo phải có bản lĩnh, tầm nhìn và năng lực huy động nguồn lực xã hội, vượt ra khỏi logic điều hành theo thói quen.
4.4. Thách thức niềm tin và đồng thuận xã hội
Thành phố đang đối diện thách thức mới trong việc củng cố niềm tin chính trị và xây dựng đồng thuận xã hội. Những tác động nặng nề của đại dịch Covid-19 cùng với những sai phạm trong thực hiện một số dự án chỉnh trang đô thị như Khu đô thị mới Thủ Thiêm cũng như biểu hiện suy thoái đạo đức trong một bộ phận cán bộ đã ảnh hưởng đến cảm nhận và kỳ vọng của Nhân dân đối với hệ thống chính trị. Trong môi trường truyền thông đa chiều, đặc biệt trên không gian mạng, tốc độ lan truyền thông tin nhanh hơn khả năng phản hồi chính sách. Công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đôi khi còn chậm và thiếu tính chủ động [4]. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết: niềm tin của Nhân dân không thể được củng cố chỉ bằng tuyên truyền mà phải được củng cố bằng kết quả thực tế, bằng khả năng giải quyết nhu cầu thiết thân của đời sống và bằng hình ảnh một đội ngũ lãnh đạo liêm chính, gương mẫu, dám chịu trách nhiệm trước Nhân dân. Bởi đồng thuận xã hội phải được xây dựng từ đạo đức công vụ và hiệu quả quản trị chứ không chỉ từ thông điệp chính trị.
5. Giải pháp nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng bộ Thành phố
Hồ Chí Minh
5.1. Xây dựng Đảng về đạo đức và văn hóa chính trị
Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh trước hết cần bắt đầu từ việc xây dựng Đảng về đạo đức, trong đó văn hóa chính trị trở thành trục giá trị định hướng cho hành vi công quyền. Việc phát triển mô hình “chính quyền liêm chính - công vụ phục vụ” phải được xem là chuẩn mực căn bản của bộ máy công quyền, không chỉ là khẩu hiệu định hướng. “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh” cần được hiện thực hóa thành môi trường rèn luyện thường xuyên, từ phong cách lãnh đạo, thái độ giao tiếp đến tinh thần trách nhiệm trong công việc. Đạo đức công vụ phải trở thành thước đo năng lực lãnh đạo, chứ không chỉ là yêu cầu phẩm chất cá nhân. Khi văn hóa chính trị trở thành nền tảng nội sinh của hệ thống, quyền lực công sẽ chuyển từ “quyền lực cai trị” sang “quyền lực phục vụ”. “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh” trở thành chuẩn mực sống và làm việc.
5.2. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ
Để bảo đảm tính chính danh và hiệu quả lãnh đạo, công tác cán bộ cần được đặt trong cơ chế kiểm soát quyền lực minh bạch và chặt chẽ. Minh bạch hóa lộ trình công tác, tiêu chí bổ nhiệm và điều chuyển cán bộ không chỉ ngăn ngừa lợi ích nhóm mà còn khuyến khích cạnh tranh lành mạnh dựa trên năng lực thực thi. Đánh giá cán bộ phải dựa trên năng lực giải quyết các vấn đề của đô thị lớn, thay vì dựa trên thâm niên hay hồ sơ bằng cấp. Công khai kết quả công vụ và trách nhiệm cá nhân giúp chuyển việc quản lý cán bộ từ cơ chế niềm tin sang cơ chế minh chứng hiệu quả. Khi quyền lực được kiểm soát, sự liêm chính của hệ thống chính trị sẽ được củng cố một cách vững chắc.
5.3. Nâng cao năng lực lãnh đạo chuyển đổi số của Đảng
Chuyển đổi số không thể thành công nếu thiếu chuyển đổi tư duy lãnh đạo. Đảng bộ Thành phố cần đi đầu trong đổi mới phương pháp điều hành và ra quyết định dựa trên dữ liệu lớn và phân tích thời gian thực. Việc xây dựng hệ thống dữ liệu điều hành thống nhất từ cấp Thành phố đến cơ sở không chỉ giúp rút ngắn thời gian xử lý thông tin mà còn tạo điều kiện để minh bạch hóa hoạt động quản trị. Lãnh đạo CĐS không phải là trang bị nhiều công nghệ hơn mà là thay đổi cách nhìn nhận vấn đề: từ trực cảm sang bằng chứng, từ quản lý theo kinh nghiệm sang hoạch định dựa trên dự báo và mô hình hóa.
5.4. Phát huy dân chủ và vai trò giám sát xã hội
Nâng cao năng lực cầm quyền đồng nghĩa với mở rộng không gian dân chủ thực chất. Đối thoại chính sách cần được tổ chức thường xuyên theo mô hình “chính quyền lắng nghe”, trong đó Nhân dân không chỉ trình bày nguyện vọng mà tham gia cùng Nhà nước giải quyết vấn đề. Mặt trận Tổ quốc cần được củng cố như thiết chế điều phối xã hội đô thị, có khả năng điều hòa lợi ích và chuyển hóa ý kiến xã hội thành phản biện chính sách. Bên cạnh đó, phát triển hệ sinh thái dân chủ số cho phép người dân tham gia giám sát và trao đổi chính sách theo thời gian thực, bảo đảm sự minh bạch trong vận hành công quyền và tăng cường đồng thuận chính trị.
5.5. Kiến tạo đội ngũ cán bộ đô thị thông minh
Để dẫn dắt sự phát triển của một siêu đô thị, Đảng bộ Thành phố cần kiến tạo đội ngũ cán bộ có tầm nhìn hệ thống, tư duy cải cách và khả năng thiết kế chính sách phát triển. Cán bộ không chỉ cần giỏi quản lý mà phải biết giải quyết vấn đề phức tạp trong các lĩnh vực quy hoạch, giao thông, môi trường, CĐS và thu hút đầu tư. Việc đào tạo cán bộ cần diễn ra trong môi trường thực chiến, nơi người học tiếp xúc trực tiếp với vấn đề thực tiễn và chịu trách nhiệm giải quyết nó. Chỉ khi đó, đội ngũ lãnh đạo mới hình thành được bản lĩnh chính trị, năng lực xử lý tình huống và tinh thần hành động vì lợi ích chung.
6. Kết luận
Xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn phát triển mới cần được nhìn nhận như một quá trình tái cấu trúc nền tảng quyền lực chính trị chứ không chỉ là chỉnh đốn tổ chức hay phòng ngừa sai phạm. Nếu trước đây trọng tâm đặt vào củng cố kỷ luật và giữ gìn sự trong sạch của đội ngũ thì yêu cầu hiện nay là nâng cao năng lực cầm quyền, lãnh đạo và kiến tạo sự phát triển của một siêu đô thị có vai trò đầu tàu quốc gia. Điều này đòi hỏi Đảng phải xây dựng được văn hóa chính trị liêm chính, trong đó đạo đức công vụ và sự gương mẫu của người đứng đầu trở thành chuẩn mực vận hành quyền lực.
Năng lực cầm quyền không chỉ thể hiện qua khả năng hoạch định chiến lược, mà còn qua năng lực tổ chức thực thi, khả năng phản ứng với các vấn đề mới và điều tiết hài hòa các quan hệ xã hội phức tạp của đô thị hiện đại. Đảng bộ Thành phố phải thực sự là trung tâm kiến tạo phát triển, định hình tầm nhìn, dẫn dắt đổi mới, truyền cảm hứng hành động, đồng thời gìn giữ trật tự giá trị và tính nhân văn trong đời sống xã hội. Sự phát triển bền vững của Thành phố không chỉ dựa vào tăng trưởng kinh tế, mà còn dựa vào niềm tin chính trị và đồng thuận xã hội.
Thước đo cao nhất của năng lực lãnh đạo không nằm ở diễn ngôn mà ở sự hài lòng của Nhân dân trước hiệu quả thực tiễn của chính sách. Khi Nhân dân tin tưởng, Đảng có chính danh; khi Nhân dân đồng hành, Thành phố có động lực phát triển; và khi đạo đức công vụ được bảo đảm, quyền lực chính trị có thể trường tồn. Do đó, củng cố niềm tin của Nhân dân chính là điều kiện căn bản để Đảng mạnh, hệ thống chính trị vững, và Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục bước đi vững chắc trên con đường hiện đại, nhân văn và hạnh phúc.
______________
Tài liệu tham khảo
[1] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2020). Bảng phụ chí Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025.
[2] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2020). Báo cáo kết quả biểu quyết những vấn đề quan trọng trong báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025.
[3] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2020). Báo cáo tóm tắt dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khóa X (do đồng chí Nguyễn Thành Phong, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố, báo cáo tại phiên Khai mạc Đại hội ngày 15/10/ 2020).
[4] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2020). Diễn văn khai mạc Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, nhiệm kỳ 20202-2025 (do đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh khóa X, trình bày sáng ngày 15/10/2020).
[5] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2020). Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025. Nguồn: https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-dang-bo-thanh-pho-ho-chi-minh-lan-thu-xi-nhiem-ky-2020-2025-1491870713, ngày 18/10/2020.
[6] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2025). Bế mạc Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Nguồn: https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/be-mac-dai-hoi-dai-bieu-dang-bo-thanh-pho-ho-chi-minh-nhiem-ky-2025-2030-1491939588, ngày 15/10/2025.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 111.
[8] Hồ Chí Minh Toàn tập (tập 10, 2011). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 315.
[9] Hồ Chí Minh Toàn tập (tập 12, 2011). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 402.
[10] Hồ Chí Minh Toàn tập (tập 15, 2011). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 668, 672.
[11] Hồ Chí Minh Toàn tập (tập 5, 2011). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 278, 290, 292.
[12] Hồ Chí Minh Toàn tập (tập 7, 2011). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 50.
[13] Quốc hội (2020). Nghị quyết số 131/2020/QH14, ngày 16/11/2020 Tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh.
[14] Quốc hội (2023). Nghị quyết số 98/2023/QH15, ngày 24/76/2023 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh.
[15] V.I.Lênin Toàn tập (tập 30, 1977). Toàn tập. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 167.
[16] V.I.Lênin Toàn tập (tập 3, 1977). Toàn tập. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 66.
[17] V.I.Lênin Toàn tập (tập 6, 2005). Toàn tập. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 30, 290.
[18] V.I.Lênin Toàn tập (tập 44, 1977). Toàn tập. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 217-218.