ThS. Trương Vương Khánh
Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng và Nghiệp vụ Ngoại ngữ
Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh
Email: t.vkhanh@hcmca.edu.vn
Tóm tắt
Thành phố Hồ Chí Minh đang chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa vào vốn và lao động sang mô hình kinh tế tri thức, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, trong đó tri thức và công nghệ trở thành nguồn lực trung tâm. Nhiệm vụ trọng tâm là tối ưu hóa nguồn lực con người, mở rộng tự chủ tài chính, phát triển công nghiệp công nghệ cao, hạ tầng số và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo liên kết viện - trường - doanh nghiệp. Khi thể chế, nguồn lực và quản trị được cải cách đồng bộ, Thành phố có thể bứt phá trở thành cực tăng trưởng tri thức và trung tâm sáng tạo hàng đầu của quốc gia và khu vực.
Từ khóa: Huy động, tối ưu hóa, nguồn lực phát triển, Thành phố Hồ Chí Minh, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số.
Abstract
Ho Chi Minh City is transitioning from a growth model based on capital and labor to one grounded in the knowledge economy, innovation, and digital transformation, in which knowledge and technology become central resources. The core task is to optimize human resources, expand financial autonomy, develop high-tech industries, digital infrastructure, and an innovation ecosystem connecting research institutes, universities, and enterprises. When institutions, resources, and governance are comprehensively reformed, the City can make a breakthrough to become a leading knowledge-based growth pole and innovation hub of the nation and the region.
Keywords: Mobilization, optimization, development resources, Ho Chi Minh City, innovation, digital transformation.
1. Đặt vấn đề
Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò trung tâm kinh tế, tài chính, khoa học - công nghệ và hội nhập quốc tế của cả nước, với tỷ trọng đóng góp khoảng 22-23% GDP quốc gia và hơn 27% tổng thu ngân sách nhà nước. Năm 2024, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của Thành phố dẫn đầu cả nước, đạt 1,78 triệu tỷ đồng, tăng trưởng 7,17% - cao hơn mức bình quân cả nước [10]. Tuy nhiên, các động lực tăng trưởng truyền thống dựa trên mở rộng đầu tư, khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ đã dần chạm ngưỡng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định rõ yêu cầu: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh” [8], đây không chỉ là định hướng phát triển mà là yêu cầu mang tính tất yếu khách quan của quá trình hội nhập và cạnh tranh quốc tế.
Thành phố đang triển khai những định hướng chiến lược có tầm ảnh hưởng cấu trúc như xây dựng Trung tâm Tài chính Quốc tế, phát triển Khu đô thị sáng tạo tương tác cao phía Đông, thí điểm Cơ chế đặc thù theo Nghị quyết 98/2023/QH15, tổ chức lại mạng lưới logistics và công nghiệp công nghệ cao, đồng thời thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện trong quản trị đô thị, kinh tế và dịch vụ công [11]. Song để các chương trình này chuyển hóa thành năng lực phát triển thực chất, vấn đề cốt lõi không nằm ở tầm nhìn chiến lược mà ở khả năng huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực trên nền tảng thể chế hiện đại và năng lực điều hành thích ứng. Do đó, bài viết tập trung phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tối ưu hóa nguồn lực phát triển trong điều kiện chuyển đổi sang mô hình kinh tế tri thức - đổi mới sáng tạo - chuyển đổi số, làm rõ yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo, thiết kế chính sách và quản trị phát triển, qua đó đề xuất các định hướng giải pháp nhằm bảo đảm Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục giữ vai trò đầu tàu phát triển, trung tâm hội nhập và động lực đổi mới của quốc gia.
2. Cơ sở lý luận và phương pháp tiếp cận
2.1. Lý luận về kinh tế tri thức
Khái niệm kinh tế tri thức được định hình nổi bật trong các công trình của Peter Drucker và Daniel Bell khi cho rằng tri thức không chỉ đóng vai trò công cụ hỗ trợ sản xuất mà đã trở thành nguồn lực sản xuất trung tâm của nền kinh tế hiện đại. Trong cấu trúc kinh tế tri thức, giá trị gia tăng không xuất phát chủ yếu từ sản xuất vật chất mà được tạo ra bởi quá trình nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, năng lực sáng tạo và xử lý thông tin. Điều này dẫn đến sự chuyển dịch nền tảng cạnh tranh từ tài nguyên hữu hạn sang trí tuệ và năng lực làm chủ tri thức. Peter Drucker gọi đây là sự chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, nơi người lao động tri thức trở thành lực lượng sản xuất chủ đạo [9].
Nguồn lực cốt lõi của mô hình phát triển này là con người, không chỉ dưới góc nhìn nhân lực lao động mà như một thực thể sáng tạo, biết tạo ra giá trị mới thông qua tư duy, phân tích, thiết kế và ứng dụng công nghệ. Không gian sản xuất cũng được mở rộng từ nhà máy và khu công nghiệp sang môi trường số, hệ thống kết nối dữ liệu và hạ tầng công nghệ thông minh. Yếu tố quyết định sức cạnh tranh không chỉ còn là giá thành sản xuất mà là tốc độ phát triển công nghệ và năng lực nắm giữ tri thức mới. Đây là cơ sở lý luận để Thành phố Hồ Chí Minh chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng kinh tế tri thức gắn với đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
2.2. Đổi mới sáng tạo như động lực phát triển
Trong lý luận phát triển kinh tế hiện đại, Joseph Schumpeter khẳng định rằng đổi mới sáng tạo là động lực nội sinh tạo nên các chu kỳ tăng trưởng mới và làm biến đổi cấu trúc kinh tế. Đổi mới sáng tạo không chỉ dừng ở việc tạo ra sản phẩm mới mà bao gồm toàn bộ quá trình tổ chức lại phương thức sản xuất, thay đổi mô hình kinh doanh, ứng dụng công nghệ mới và mở ra không gian giá trị mới cho nền kinh tế [1]. Khi đổi mới được triển khai trên quy mô xã hội, nó tạo ra “sự hủy diệt sáng tạo” trong đó cái cũ tự nhiên rút lui và cái mới trở thành chuẩn mực phát triển. Đây là nguyên lý nền tảng của tăng trưởng hiện đại, tách biệt khỏi mô hình tăng trưởng dựa trên mở rộng đầu tư và khai thác tài nguyên hữu hạn.
Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, một đô thị có mật độ doanh nghiệp lớn nhất cả nước, năng lực khởi nghiệp mạnh và tập trung đông đảo đội ngũ trí thức, nhà khoa học và sinh viên, đổi mới sáng tạo trở thành động lực cạnh tranh cốt lõi. Trong thực tế, Thành phố đang hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo theo mạng lưới, kết nối giữa viện nghiên cứu - trường đại học - doanh nghiệp, tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp và các trung tâm nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao. Nhiều lĩnh vực như công nghệ tài chính, trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, vật liệu mới và công nghiệp văn hóa đang trở thành các cụm tăng trưởng mới, tạo nguồn giá trị gia tăng dựa trên tri thức thay vì tài nguyên. Điều này cho thấy chuyển đổi mô hình phát triển của Thành phố đang chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang tăng trưởng theo chiều sâu.
2.3. Chuyển đổi số như nền tảng tăng tốc
Chuyển đổi số không chỉ được hiểu như ứng dụng công nghệ số trong vận hành mà là quá trình chuyển đổi cấu trúc tổ chức, thay đổi phương thức quản trị và tái định hình quan hệ tương tác giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Trong đô thị quy mô lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, chuyển đổi số tạo điều kiện để hình thành mô hình quản trị dựa trên dữ liệu lớn, phân tích dự báo và ra quyết định theo thời gian thực. Điều này cho phép chính quyền nâng cao năng lực điều hành, tối ưu hóa nguồn lực, giảm chi phí xã hội và tăng tính minh bạch của bộ máy công quyền.
Chương trình Chuyển đổi số Quốc gia được Chính phủ phê duyệt năm 2020 nhấn mạnh ba trụ cột: chính quyền số, kinh tế số và xã hội số, đặt mục tiêu đến năm 2025 kinh tế số chiếm khoảng 20% GDP [12]. Thành phố Hồ Chí Minh đã bắt đầu triển khai kiến trúc chính quyền số và xây dựng hệ thống dữ liệu đô thị tích hợp nhằm từng bước chuyển đổi từ mô hình điều hành thủ công sang mô hình quản trị thông minh. Chuyển đổi số trong bối cảnh này là nền móng để Thành phố phát triển thành siêu đô thị thông minh, có khả năng thích ứng linh hoạt, kết nối mở và vận hành hiệu quả trước những biến động nhanh của đời sống kinh tế xã hội.
3. Thực trạng huy động và sử dụng nguồn lực phát triển
3.1. Nguồn lực con người
Thành phố sở hữu lực lượng lao động trẻ, có khả năng thích ứng cao và mang đặc điểm xã hội đô thị năng động. Năng suất lao động bình quân gấp 2,6 lần mức trung bình cả nước, thể hiện ưu thế vượt trội về hiệu quả sử dụng nhân lực. Hệ sinh thái đại học và viện nghiên cứu tập trung nhiều nhất cả nước tạo mật độ tri thức cao, mở ra khả năng hình thành trung tâm nghiên cứu và đổi mới sáng tạo quy mô vùng. Tuy nhiên năng lực nghiên cứu và phát triển còn phân tán, thiếu cơ chế điều phối tri thức thống nhất. Nhân lực công nghệ cao và chuyên gia trong các lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, phân tích dữ liệu, vật liệu tiên tiến và quản trị đô thị số chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi mô hình phát triển. Cơ chế thu hút nhân tài quốc tế và mạng lưới chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài chưa tạo được sức hút đủ mạnh [7].
Đại hội XI triển khai chiến lược mở rộng đào tạo. Định hướng Đại hội lần thứ nhất chuyển sang mục tiêu tinh hoa hóa nhân lực, nâng tỷ lệ lao động có trình độ cao lên ít nhất một phần tư tổng lực lượng lao động và tăng đầu tư xã hội cho nghiên cứu phát triển đến mức 2 đến 3% GRDP [7]. Điều này đánh dấu chuyển dịch từ coi nhân lực là vốn lao động sang coi nhân lực là tài sản tri thức.
Nguồn lực con người của Thành phố phải được tổ chức lại theo hướng từ nhân lực đông sang nhân lực tinh, từ lao động phổ thông sang trí tuệ chuyên sâu, từ đào tạo theo bằng cấp sang phát triển năng lực sáng tạo.
3.2. Tài chính và đầu tư
Thành phố giữ vai trò trung tâm tài chính của cả nước, đóng góp khoảng 27% thu ngân sách quốc gia, song tỷ lệ ngân sách được giữ lại chưa tương xứng với nhu cầu đầu tư cho hạ tầng và dịch vụ đô thị quy mô lớn [4]. Điều này làm hạn chế năng lực tự chủ tài khóa và ảnh hưởng tới tiến trình thực thi các dự án chiến lược. Chi cho khoa học công nghệ giai đoạn 2016 đến 2020 bình quân chỉ ở mức 0,83% GRDP, thấp hơn yêu cầu phát triển kinh tế tri thức [2]. Việc thu hút quỹ đầu tư mạo hiểm và tài chính quốc tế chưa đạt quy mô có tác dụng chuyển hóa cấu trúc sản xuất và công nghệ.
Định hướng Đại hội lần thứ nhất đặt trọng tâm tăng tỷ lệ đầu tư xã hội lên từ 35 đến 40% GRDP và bảo đảm đầu tư ổn định cho khoa học, công nghệ và chuyển đổi số ở mức 4 đến 5% ngân sách thường xuyên, thể hiện bước chuyển trọng tâm từ hạ tầng vật chất sang hạ tầng tri thức [7].
Tài chính phải được tái nhận thức như động lực của phát triển chứ không chỉ là phương tiện chi tiêu. Giá trị của nguồn lực không nằm ở lượng vốn mà ở khả năng tổ chức vốn cho sáng tạo.
3.3. Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo
Thành phố đã từng bước hình thành hạt nhân đổi mới sáng tạo nhưng mối liên kết giữa trường đại học - viện nghiên cứu - doanh nghiệp chưa đạt đến mức hợp nhất để tạo mạng lưới tri thức có sức lan tỏa. Các trung tâm ươm tạo công nghệ và chuyển giao tri thức còn phân tán theo ngành, chưa hình thành chuỗi giá trị đổi mới liên tục từ nghiên cứu cơ bản đến thương mại hóa sản phẩm. Doanh nghiệp công nghệ phần lớn vẫn gia công, chưa làm chủ công nghệ lõi, chưa tạo ra chuỗi giá trị nội sinh [6].
Tại Đại hội lần thứ nhất xác lập mô hình liên minh tri thức, trong đó Nhà nước đóng vai trò kiến tạo không gian thể chế, doanh nghiệp đảm nhận vai trò đổi mới ứng dụng, viện và trường tập trung vào nghiên cứu và đào tạo, còn quỹ đầu tư mạo hiểm đảm nhiệm vai trò xúc tác tăng trưởng [7]. Qua đó, đổi mới sáng tạo chỉ trở thành động lực phát triển khi tri thức được tổ chức như một hệ thống sống, có khả năng kết nối, cộng hưởng và tự tái tạo, thay vì tồn tại như tập hợp các nguồn lực rời rạc.
3.4. Hệ thống hạ tầng số và logistics
Hệ thống hạ tầng số của Thành phố phát triển nhanh, là địa phương đầu tiên triển khai công nghệ 5G nhưng dữ liệu vẫn phân tán theo từng lĩnh vực và từng cơ quan quản lý, khiến mô hình quản trị đô thị thông minh chưa vận hành theo thời gian thực (nâng cao trách nhiệm). Hệ thống logistics chuỗi cung ứng còn chi phí cao và kết nối liên vùng chưa hiệu quả, làm giảm sức cạnh tranh trong thương mại dịch vụ quốc tế. Thành phố chưa hình thành trung tâm dữ liệu quy mô quốc gia để vận hành kinh tế số và trí tuệ nhân tạo như một cấu trúc nền tảng [7].
Tại Đại hội lần thứ nhất đặt mục tiêu xây dựng trung tâm logistics thông minh, siêu cảng trung chuyển quốc tế kết nối cảng biển, đường thủy và hàng không, cùng với trung tâm dữ liệu đô thị quy mô lớn làm hạ tầng cơ sở của nền kinh tế số và xã hội số [7].
Hạ tầng số và logistics không chỉ là điều kiện vật chất mà là kiến trúc quyền lực phát triển đô thị - nơi thông tin trở thành nguồn lực và kết nối trở thành năng lực
cạnh tranh.
4. Động lực chiến lược thúc đẩy mô hình kinh tế tri thức - đổi mới sáng tạo - chuyển đổi số
4.1. Hình thành một trung tâm tài chính quốc tế
Với cấu phần cốt lõi là hệ sinh thái dịch vụ tài chính số, trọng tâm bao gồm chuẩn hóa hạ tầng thanh toán số, ngân hàng số và các nền tảng giao dịch theo thời gian thực gắn với chuẩn an toàn dữ liệu và phòng chống rửa tiền. Song hành là kiến tạo hành lang pháp lý thử nghiệm có kiểm soát cho tài sản số, công nghệ tài chính và chuỗi khối, cho phép thử nghiệm sản phẩm, mô hình kinh doanh và sandbox quản trị rủi ro. Cùng với đó, Thành phố cần phát triển mạng lưới nền tảng huy động vốn cho đổi mới sáng tạo như sàn giao dịch vốn mạo hiểm, cơ chế trái phiếu doanh nghiệp minh bạch và các quỹ đồng đầu tư công tư. Khi ba trụ cột hạ tầng số, khung pháp lý và thị trường vốn vận hành đồng nhịp, trung tâm tài chính sẽ trở thành bộ biến áp tăng điện thế cho toàn bộ nền kinh tế đô thị [7].
4.2. Phát triển hệ sinh thái đổi mới sang tạo phía Đông
Kiến tạo một cực tăng trưởng dựa trên tri thức ở không gian phía Đông thông qua hợp nhất chức năng của đại học và viện nghiên cứu với khu công nghệ cao và các không gian công viên khoa học mở. Cấu trúc này phải vận hành như một chuỗi giá trị liền mạch từ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, ươm tạo, tăng tốc đến thương mại hóa. Cơ chế đặt hàng nghiên cứu theo nhu cầu của doanh nghiệp, phòng thí nghiệm trọng điểm dùng chung, chính sách chia sẻ lợi ích sở hữu trí tuệ và quỹ đầu tư giai đoạn sớm sẽ làm đầy chất kết dính của mạng lưới [7]. Khi năng lực nghiên cứu, hạ tầng công nghệ và vốn mạo hiểm hội tụ, không gian phía Đông có thể trở thành thung lũng sáng tạo của Việt Nam, xuất khẩu tri thức và công nghệ thay vì chỉ gia công.
4.3. Xây dựng mô hình khu thương mại tự do thế hệ mới
Đó là liên kết chặt chẽ cảng biển quốc tế với hệ thống logistics thông minh và cụm sản xuất công nghệ cao. Không gian FTZ cần cơ chế hải quan số một cửa, thủ tục thông quan theo rủi ro, chuẩn dữ liệu logistics thống nhất và ưu đãi có điều kiện cho doanh nghiệp công nghệ cao gắn tiêu chí chuyển giao công nghệ. Hệ sinh thái này sẽ thu hút dòng chảy hàng hóa, dịch vụ và vốn quốc tế, đồng thời rút ngắn chuỗi cung ứng, giảm chi phí logistics và nâng hàm lượng công nghệ trong xuất khẩu [7]. Khi cơ sở hạ tầng cảng, kho bãi, trung tâm phân phối và nền tảng dữ liệu vận hành như một hệ, FTZ sẽ đóng vai trò bản lề kết nối thị trường toàn cầu với năng lực sản xuất dựa trên tri thức của Thành phố.
4.4. Chuyển dịch cấu trúc công nghiệp từ chiều rộng sang chiều sâu, ưu tiên các ngành hạt nhân có tác dụng lan tỏa công nghệ
Trọng tâm là bán dẫn và vi mạch với chuỗi thiết kế, đóng gói, kiểm định và các dịch vụ thiết kế vi mạch thuê ngoài; công nghệ sinh học và dược phẩm với nền tảng phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế, trung tâm thử nghiệm lâm sàng và cơ chế mua sắm đổi mới; vật liệu mới, robot và tự động hóa với cụm doanh nghiệp phụ trợ và trung tâm thử nghiệm tiêu chuẩn đo lường chất lượng. Chính sách đất đai, tín dụng, thuế và thị trường mua sắm công cần được hiệu chỉnh theo logic đón nhận công nghệ, bảo đảm doanh nghiệp có động lực đầu tư R&D và nâng cấp công nghệ liên tục [7]. Khi các ngành mũi nhọn tạo lực kéo, toàn bộ cấu trúc công nghiệp sẽ dịch chuyển lên nấc thang giá trị cao hơn.
4.5. Hình thành kiến trúc hạ tầng số đồng bộ
Kiến trúc hạ tầng số đồng bộ như nền móng của siêu đô thị thông minh. Trọng tâm là trung tâm dữ liệu quy mô lớn đạt chuẩn an toàn thông tin cấp cao, bảo đảm chủ quyền dữ liệu và năng lực tính toán cho trí tuệ nhân tạo. Bản đồ số thống nhất, các lớp dữ liệu không gian và dữ liệu vận hành công sẽ là ngôn ngữ chung liên thông giữa các sở ngành, mở đường cho quản trị theo thời gian thực. Hệ thống điều hành đô thị thông minh tích hợp cảm biến, nền tảng phân tích dự báo và bảng điều khiển chính sách sẽ rút ngắn vòng đời ra quyết định, nâng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình [7]. Khi dữ liệu trở thành hạ tầng công, mọi lĩnh vực từ giao thông, y tế, giáo dục đến an sinh và môi trường đều có thể nâng năng suất nhờ phân tích chứng cứ, qua đó gia tốc chuyển đổi số toàn diện của Thành phố.
5. Giải pháp huy động và tối ưu hóa nguồn lực
5.1. Cơ chế tài chính và đầu tư
Trọng tâm của việc huy động nguồn lực trong giai đoạn phát triển mới là hoàn thiện cơ chế tài chính theo hướng tăng quyền tự chủ, năng lực điều phối và quyền phân bổ nguồn lực của Thành phố. Cần mở rộng mô hình đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư nhân, trong đó đầu tư công đóng vai trò khơi thông, định hướng và tạo niềm tin thị trường, còn khu vực tư nhân, vốn FDI và các quỹ tài chính quốc tế mở rộng quy mô triển khai. Việc điều chỉnh tăng tỷ lệ ngân sách để lại cho Thành phố là yêu cầu mang tính cấu trúc, vì chỉ khi có dư địa tài khóa tương xứng với đóng góp ngân sách quốc gia, Thành phố mới có thể chủ động thực hiện các dự án hạ tầng mang tính lan tỏa và chiến lược dài hạn. Cùng với đó cần hình thành Quỹ Đổi mới sáng tạo Thành phố như một thiết chế tài chính đặc thù nhằm tài trợ cho R&D, khởi nghiệp công nghệ và thí điểm các mô hình kinh tế mới. Quỹ này không chỉ tạo nguồn vốn rủi ro mà còn đóng vai trò kết nối tri thức giữa nhà khoa học, doanh nghiệp và cộng đồng nhà đầu tư, từ đó tạo nên chu trình lan tỏa tri thức và thương mại hóa công nghệ. Khi cơ chế tài chính vận hành minh bạch, phản ứng nhanh với yêu cầu phát triển và khuyến khích đổi mới sáng tạo, Thành phố có thể chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa vào vốn sang mô hình tăng trưởng dựa vào tri thức và giá trị gia tăng cao.
5.2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực là động lực quyết định đối với mô hình kinh tế tri thức và đô thị sáng tạo. Thành phố cần xây dựng chiến lược thu hút và trọng dụng nhà khoa học, chuyên gia công nghệ và các tài năng trẻ trên phạm vi cả nước và quốc tế thông qua môi trường học thuật cởi mở, cơ chế đãi ngộ hợp lý và không gian sáng tạo tự do. Phát triển nhân lực không chỉ dừng ở việc đào tạo mà phải chuyển sang nuôi dưỡng năng lực đổi mới, trong đó mô hình liên kết đại học và doanh nghiệp đóng vai trò then chốt. Việc đồng thiết kế chương trình đào tạo, đồng triển khai phòng thí nghiệm mở và đồng sở hữu kết quả nghiên cứu sẽ hình thành chuỗi giá trị tri thức liên thông từ đào tạo đến ứng dụng. Bên cạnh đó, cần xây dựng đội ngũ trí thức đô thị như nền móng văn hóa tri thức của Thành phố, nơi tri thức không chỉ là năng lực nghề nghiệp mà còn là giá trị tinh thần định hướng lối sống, thái độ công dân và ý thức phụng sự cộng đồng. Chính sách thu hút nhân lực phải đi đôi với chính sách trọng dụng và cơ chế đánh giá dựa trên thành quả thực tiễn, không dựa vào thâm niên hay chức danh hành chính. Khi con người trở thành chủ thể tạo ra tri thức và tri thức trở thành nền tảng của quyền lực phát triển, Thành phố sẽ hình thành được năng lực cạnh tranh nội sinh bền vững và trí tuệ.
5.3. Phát triển công nghiệp công nghệ cao
Tái cấu trúc nền công nghiệp của Thành phố theo hướng công nghệ cao đòi hỏi chuyển trọng tâm từ gia công, lắp ráp sang làm chủ thiết kế, sáng tạo công nghệ và chi phối chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này chỉ có thể đạt được nếu Thành phố tạo lập được hệ sinh thái công nghiệp dựa trên tri thức, trong đó chính sách đất đai, ưu đãi thuế và hạ tầng khu công nghệ cao phải được thiết kế để khuyến khích các tập đoàn công nghệ và doanh nghiệp đầu tư vào bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học và vật liệu mới. Thành phố cần chủ động xây dựng năng lực nội sinh bằng cách hỗ trợ doanh nghiệp nội địa tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu thông qua chuyển giao công nghệ có điều kiện, đào tạo kỹ sư công nghệ cao và thiết lập trung tâm thiết kế chip bán dẫn. Việc hình thành mạng lưới doanh nghiệp nghiên cứu - phát triển sẽ tạo ra năng lực cạnh tranh chiến lược, đưa công nghiệp Thành phố từ vị trí phụ thuộc sang vị thế tự chủ sáng tạo. Khi công nghiệp công nghệ cao trở thành trục phát triển, Thành phố có thể nâng tầm cơ cấu kinh tế, đồng thời tạo động lực lan tỏa đến các ngành dịch vụ tài chính, logistics và đô thị thông minh.
5.4. Đổi mới phương thức quản trị đô thị
Mô hình đô thị hiện đại không thể vận hành hiệu quả nếu quản trị vẫn dựa trên kinh nghiệm và quy trình hành chính đóng. Thành phố cần chuyển sang quản trị dựa trên dữ liệu thời gian thực, trong đó dữ liệu trở thành nguồn lực công mới, được chuẩn hóa, liên thông và dùng để dự báo, ra quyết định và kiểm soát rủi ro đô thị. Xây dựng hệ thống điều hành đô thị thông minh không chỉ là đầu tư hạ tầng số mà là tái cấu trúc tư duy lãnh đạo và công cụ điều hành. Việc minh bạch hóa thông tin, giải trình trực tuyến và thiết lập tương tác số giữa chính quyền, doanh nghiệp và người dân sẽ làm tăng tính tin cậy, rút ngắn thời gian xử lý chính sách và nâng cao chất lượng phục vụ công dân. Công chức đô thị phải được đào tạo theo năng lực quản trị phân tích, vận hành hệ thống số và xử lý vấn đề đa ngành. Khi quản trị đô thị chuyển từ mô hình kiểm soát sang mô hình phục vụ, từ hành chính sang kiến tạo, Thành phố sẽ hình thành nền quản trị mềm dẻo, minh bạch và hiệu quả, phù hợp với quy luật vận động của một siêu đô thị tri thức.
5.5. Về liên kết vùng
Thành phố không thể phát triển bền vững nếu không đặt mình trong tương tác cấu trúc với vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Phát triển hành lang kinh tế liên tỉnh Thành phố Hồ Chí Minh - Bình Dương - Đồng Nai - Bà Rịa - Vũng Tàu sẽ tạo nên trục động lực kinh tế - logistics có năng lực kết nối quốc tế. Việc liên kết vùng phải dựa trên chia sẻ hạ tầng logistics, cảng biển, sân bay, mạng lưới đa phương thức và hệ thống cung ứng lao động chất lượng cao. Đồng thời, cần hình thành mạng lưới nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo liên vùng, tạo không gian học thuật và công nghiệp mở, nơi tri thức và công nghệ lan tỏa theo quy mô mạng lưới. Liên kết vùng phải chuyển từ hợp tác hành chính sang hợp tác kinh tế dựa trên lợi thế bổ sung lẫn nhau, trong đó Thành phố giữ vai trò trung tâm điều phối chiến lược. Khi vùng phát triển đồng bộ, Thành phố sẽ có không gian kinh tế đủ lớn, hạ tầng đủ mạnh và nguồn lực đủ đa dạng để thực hiện mục tiêu trở thành trung tâm tri thức và đổi mới sáng tạo hàng đầu khu vực.
6. Kết luận
Chuyển đổi sang mô hình kinh tế tri thức, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đối với Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ là một định hướng phát triển kinh tế đơn thuần mà là sự chuyển dịch nền tảng của cấu trúc quyền lực, văn hóa và trình độ văn minh đô thị. Trọng tâm của tiến trình này nằm ở việc tái xác lập vai trò của tri thức như nguồn lực sản xuất cơ bản, trong đó con người không còn chỉ là lực lượng lao động mà trở thành chủ thể sáng tạo giá trị mới. Năng lực cạnh tranh của Thành phố trong giai đoạn tới sẽ được quyết định bởi khả năng xây dựng hệ sinh thái tri thức liên thông giữa nhà nước, đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp và cộng đồng sáng tạo.
Quá trình chuyển đổi đòi hỏi cải cách sâu rộng về thể chế, nơi quyền lực công được vận hành trên nền tảng minh bạch, pháp quyền và tương tác xã hội thời gian thực. Đồng thời, phát triển hạ tầng số và không gian đổi mới sáng tạo cần được coi là thiết chế chiến lược, tương đương với vai trò của hạ tầng giao thông và đô thị trong giai đoạn công nghiệp hóa truyền thống. Vì vậy, nếu Thành phố kiến tạo được môi trường chính sách cởi mở, thu hút nhân lực tinh hoa, hình thành trung tâm tài chính quốc tế và công nghiệp công nghệ cao có năng lực chi phối chuỗi giá trị khu vực thì không chỉ duy trì vai trò đầu tàu kinh tế mà còn có thể vươn lên như một cực tăng trưởng tri thức và sáng tạo của Đông Nam Á, góp phần khẳng định vị thế mới của Việt Nam trong trật tự phát triển toàn cầu.
_____________
Tài liệu tham khảo
[1] Bell, Daniel. (1973). The coming of post-industrial society. New York, Basic Books.
[2] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2020) Bảng phụ chí Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025.
[3] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2020). Báo cáo tóm tắt dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khóa X (do đồng chí Nguyễn Thành Phong, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố, báo cáo tại phiên Khai mạc Đại hội ngày 15/10/2020).
[4] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2020). Diễn văn khai mạc Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, nhiệm kỳ 20202-2025 (do đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh khóa X, trình bày sáng ngày 15/10/2020).
[5] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2020). Nâng cao trách nhiệm nêu gương và năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, xứng đáng với niềm của nhân dân; phát huy truyền thống đoàn kết, năng động, sáng tạo, nghĩa tình; huy động hiệu quả mọi nguồn lực, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, tận dụng thời cơ cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tăng cường hội nhập quốc tế; đảm bảo quốc phòng - an ninh; phát triển nhanh, bền vững, vì cả nước, cùng cả nước, vì hạnh phúc của nhân dân (Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa X tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025).
[6] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2020). Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020-2025. Nguồn: https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-dang-bo-thanh-pho-ho-chi-minh-lan-thu-xi-nhiem-ky-2020-2025-1491870713, ngày 18/10/2020.
[7] Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (2025). Bế mạc Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025-2030. Nguồn: https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/be-mac-dai-hoi-dai-bieu-dang-bo-thanh-pho-ho-chi-minh-nhiem-ky-2025-2030-1491939588,ngày 15/10/2025.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (tập 1). NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 214-215.
[9] Drucker, Peter F. (Peter Ferdinand). (1969). The age of discontinuity; guidelines to our changing society. New York, Harper & Row.
[10] Hoa Mai (2025). Thành phố Hồ Chí Minh 50 năm khát vọng dân giàu, nước mạnh. Nguồn: https://quocphongthudo.vn/kinh-te/hoi-nhap/thanh-pho-ho-chi-minh-50-nam-khat-vong-dan-giau-nuoc-manh.html, ngày 04/05/2025.
[11] Quốc hội (2023). Nghị quyết số 98/2023/QH15, ngày 24/6/2023 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, .
[12] Thủ tướng Chính phủ (2020). Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 03/6/2020 Phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2020.